Thứ Bảy, 18 tháng 2, 2012

CHÚA NHẬT 18/2/2012 TUẦN VII THƯỜNG NIÊN B THÁNH CONRAD Ở PIACENZA

Thánh Conrad ở Piacenza
   
(1290 - 1350)

    Sinh trong một gia đình giầu có thuộc miền bắc nước Ý, Conrad kết hôn với Euphrosyne, con gái của một người quý phái.
    Một ngày kia, trong khi đi săn Conrad ra lệnh đốt một số bụi rậm để lùa thú ra ngoài. Lửa cháy lan ra cánh đồng kế cận và thiêu hủy cả một cánh rừng. Một nông dân vô tội bị cầm tù, bị đánh đập ép phải nhận tội và bị kết án tử hình. Tuy nhiên Conrad đã ra thú tội, cứu mạng người nông dân ấy và ông phải bồi thường thiệt hại.
    Sau biến cố ấy không lâu, Conrad và vợ đồng ý ly thân: bà gia nhập tu viện Dòng Thánh Clara Nghèo Hèn và ông đến với một nhóm người sống ẩn dật theo quy luật Dòng Ba Phanxicô. Tuy nhiên, không bao lâu, sự thánh thiện nổi tiếng của ông lan tràn. Vì sự cô quạnh bị khuấy động bởi các khách thăm viếng, Conrad di chuyển đến một nơi hoang vắng ở Sicily và ông sống ẩn dật ở đây trong 36 năm, cầu nguyện cho chính mình cũng như cho thế gian.
    Sự cầu nguyện và ăn năn đền tội là cách ông đáp trả với những cám dỗ cản trở ông nên thánh. Ông từ trần khi còn quỳ gối trước tượng thánh giá. Ông được phong thánh năm 1625.

    Lời Bàn
    Thánh Phanxicô Assisi vừa quý trọng sự chiêm niệm vừa yêu quý đời sống rao giảng; giai đoạn cầu nguyện mãnh liệt là để nuôi dưỡng sức mạnh rao giảng. Tuy nhiên, một số môn đệ đầu tiên của ngài cảm thấy được mời gọi đến đời sống chiêm niệm, và ngài chấp nhận điều đó. Mặc dù đời sống Thánh Conrad ở Piacenza không phải là một quy tắc trong Giáo Hội, nhưng ngài và các vị chiêm niệm khác nhắc nhở chúng ta về sự vĩ đại của Thiên Chúa và niềm vui của thiên đàng.

    Lời Trích
    Trong Huấn Thị về Ðời Sống Chiêm Niệm, Ðức Giáo Hoàng Phaolô VI có viết như sau:"Rút lui vào nơi vắng vẻ là để người Kitô kết hợp chính mình một cách mật thiết với sự thống khổ của Ðức Kitô, và trong một phương cách đặc biệt, giúp họ chia sẻ mầu nhiệm vượt qua và hành trình của Ðức Kitô từ trần thế đến quê trời" (#1).
    
    Trích từ NguoiTinHuu.com


TIN MỪNG HẰNG NGÀY CHỦ NHẬT 19/2/2012 TUẦN VII THƯỜNG NIÊN B THIÊN CHÚA THA THỨ TÔI LỖI..

Chủ Nhật VII Thường Niên, Năm B
Bài đọcIsa 43:18-19, 21-22, 24-25; II Cor 1:18-22; Mk 2:1-12.
 
1/ Bài đọc I:
18 Người phán như sau: "Các ngươi đừng nhớ lại những chuyện ngày xưa, chớ quan tâm về những việc thuở trước.19 Này Ta sắp làm một việc mới, việc đó manh nha rồi, các ngươi không nhận thấy hay sao? Phải, Ta sẽ mở một con đường giữa sa mạc, khơi những dòng sông tại vùng đất khô cằn. 21 Ta đã gầy dựng cho Ta dân này, chúng sẽ lên tiếng ngợi khen Ta. Ít-ra-en bội nghĩa vong ân 22 Vậy mà, hỡi Gia-cóp, ngươi đã chẳng kêu cầu Ta; phải, hỡi Ít-ra-en, ngươi đã chán Ta rồi.24 Ngươi đã không bỏ tiền mua hương liệu dâng Ta, cũng không dâng mỡ béo cho Ta được thoả dạ no lòng. Ngươi lại còn làm cho Ta cực khổ vì lầm lỗi của ngươi, làm cho Ta chán chường vì tội ác ngươi phạm. 25 Nhưng chính Ta đây, vì danh dự của Ta, Ta sẽ xoá bỏ các tội phản nghịch của ngươi, và không còn nhớ đến lỗi lầm của ngươi nữa. 

2/ Bài đọc II:
18 Xin Thiên Chúa trung thành chứng giám cho chúng tôi! Lời chúng tôi nói với anh em chẳng phải vừa là "có" vừa là "không".19 Vì Đức Ki-tô Giê-su, Con Thiên Chúa, Đấng mà chúng tôi, là Xin-va-nô, Ti-mô-thê và tôi, rao giảng cho anh em, đã không vừa là "có" vừa là "không", nhưng nơi Người chỉ toàn là "có".20 Quả thật, mọi lời hứa của Thiên Chúa đều là "có" nơi Người. Vì thế, cũng nhờ Người mà chúng ta hô lên "A-men" để tôn vinh Thiên Chúa.21 Đấng củng cố chúng tôi cùng với anh em trong Đức Ki-tô và đã xức dầu cho chúng ta, Đấng ấy là Thiên Chúa. 22 Chính Người cũng đã đóng ấn tín trên chúng ta và đổ Thần Khí vào lòng chúng ta làm bảo chứng. 

3/ Phúc Âm:
1 Vài ngày sau, Đức Giê-su trở lại thành Ca-phác-na-um. Hay tin Người ở nhà,2 dân chúng tụ tập lại, đông đến nỗi trong nhà ngoài sân chứa không hết. Người giảng lời cho họ.3 Bấy giờ người ta đem đến cho Đức Giê-su một kẻ bại liệt, có bốn người khiêng. 4 Nhưng vì dân chúng quá đông, nên họ không sao khiêng đến gần Người được. Họ mới dỡ mái nhà, ngay trên chỗ Người ngồi, làm thành một lỗ hổng, rồi thả người bại liệt nằm trên chõng xuống. 5 Thấy họ có lòng tin như vậy, Đức Giê-su bảo người bại liệt: "Này con, con đã được tha tội rồi." 6 Nhưng có mấy kinh sư đang ngồi đó, họ nghĩ thầm trong bụng rằng: 7 "Sao ông này lại dám nói như vậy? Ông ta nói phạm thượng! Ai có quyền tha tội, ngoài một mình Thiên Chúa?" 8 Tâm trí Đức Giê-su thấu biết ngay họ đang thầm nghĩ như thế, Người mới bảo họ: "Sao trong bụng các ông lại nghĩ những điều ấy? 9 Trong hai điều: một là bảo người bại liệt: "Con đã được tha tội rồi", hai là bảo: "Đứng dậy, vác lấy chõng của con mà đi", điều nào dễ hơn? 10 Vậy, để các ông biết: ở dưới đất này, Con Người có quyền tha tội, Đức Giê-su bảo người bại liệt, 11 Ta truyền cho con: Hãy đứng dậy, vác lấy chõng của con mà đi về nhà!"
12 Người bại liệt đứng dậy, và lập tức vác chõng đi ra trước mặt mọi người, khiến ai nấy đều sửng sốt và tôn vinh Thiên Chúa. Họ bảo nhau: "Chúng ta chưa thấy vậy bao giờ!"

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Thiên Chúa tha thứ tội lỗi của con người.

            Tội lỗi ngăn cản con người đến gần Thiên Chúa, Đấng vô cùng thánh thiện. Con người không thể làm gì để xóa sạch tội lỗi. Nếu Thiên Chúa không hành động, con người sẽ chết trong tội của mình. Trong Cựu Ước, Thiên Chúa chấp nhận lễ vật hy sinh để tha thứ những tội vô tình phạm; nhưng máu chiên bò không thể tha thứ những tội cố tình phạm. Máu chiên bò chỉ là hình ảnh của một máu cao quí hơn, có sức tha thứ tất cả các tội cho con người. Trong Tân Ước, Thiên Chúa cho Con của Ngài xuống trần để gánh tội cho con người. Nếu Chúa Giêsu gánh tội, Ngài cũng có quyền tha tội cho con người. Hơn nữa, Chúa Giêsu còn ban quyền tha tội cho các môn đệ; để các ông thay Ngài tha thứ mọi tội cho con người.
              Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong quyền tha tội của Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, Tiên-tri Isaiah nhìn thấy trước quyền lực tha tội nơi Đấng Thiên Sai mà Thiên Chúa sẽ gởi tới cho con người. Vì Người Con này, Thiên Chúa sẽ xóa sạch tội lỗi của con người, và không nhớ đến những lỗi lầm họ đã xúc phạm tới Ngài nữa. Trong Bài Đọc II, Thánh Phaolô xác tín: những gì Thiên Chúa hứa với con người, Ngài sẽ thi hành. Noi gương Thiên Chúa, Thánh Phaolô và các môn đệ của ngài cũng trung thành giữ những gì đã hứa: nói “có” là “có.” Trong Phúc Âm, khi Chúa Giêsu bị các kinh-sư tố cáo phạm thượng, Chúa Giêsu chứng minh cho họ thấy: nếu Ngài có uy quyền chữa bệnh bại liệt, Ngài cũng có uy quyền tha tội, vì theo họ, tội là nguyên nhân của bại liệt.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc ITa sẽ xoá bỏ các tội phản nghịch của ngươi.
            Tiên-tri Isaiah nhìn thấy trước Thiên Chúa sẽ tha thứ tội lỗi cho con người, khi Người tuyên phán: "Các ngươi đừng nhớ lại những chuyện ngày xưa, chớ quan tâm về những việc thuở trước. Này Ta sắp làm một việc mới, việc đó bắt đầu rồi, các ngươi không nhận thấy hay sao? Phải, Ta sẽ mở một con đường giữa sa mạc, khơi những giòng sông tại vùng đất khô cằn.” Việc mới Thiên Chúa sắp làm là cho Đức Kitô nhập thể để cứu chuộc con người. Khi Đức Kitô Nhập Thể, tiến trình tha thứ tội lỗi cho con người đã bắt đầu. Máu của Đức Kitô đổ ra sẽ xóa sạch tội lỗi cho con người, và hòa giải con người với Thiên Chúa (x/c Lk 22:19, I Cor 11:24-26). Trong đọan văn này, tiên-tri muốn nhấn mạnh đến lòng thương xót của Thiên Chúa và sự vô ơn của con người:
            (1) Lòng thương xót của Thiên Chúa: Thiên Chúa tha thứ vì Ngài yêu thương con người (Jn 3:16). Ngài thương xót vì Ngài là Cha, và vì danh hiệu “Cha,” ngài yêu thương con cái cho dù chúng xúc phạm đến Ngài: “Nhưng chính Ta đây, vì danh dự của Ta, Ta sẽ xoá bỏ các tội phản nghịch của ngươi, và không còn nhớ đến lỗi lầm của ngươi nữa.”
            (2) Sự vô ơn của con người: Con người chẳng có thể làm gì để đáng được tha tội; không những thế, con người tiếp tục làm Chúa buồn sầu: “Ngươi lại còn làm cho Ta cực khổ vì lầm lỗi của ngươi, làm cho Ta chán chường vì tội ác ngươi phạm.” Lẽ ra con người phải biết ơn tất cả những gì Thiên Chúa làm, và lên tiếng ca ngợi Thiên Chúa; nhưng con người đã bội nghĩa vong ân, chẳng kêu cầu Thiên Chúa, và cho đến độ như Chúa nói: “Ngươi đã chán ta rồi.” Điều này, chúng ta có thể thấy thành những khẩu hiệu ngày nay, chứ không còn trong tư tưởng nữa: “Tôi đã giết chết Thiên Chúa!” (F. Nietzsche) “Tôn giáo là thuốc phiện mê ngủ con người!” (K. Marx). Hiện đang có trào lưu đòi quyền được quảng cáo trên các xe bus: “Không có Thiên Chúa!”

2/ Bài đọc II: Thiên Chúa hứa gì có nấy.
             2.1/ Thiên Chúa là Đấng trung thành: Thánh Phaolô xác tín: Thiên Chúa trung thành, Ngài thực hiện những gì Ngài hứa, và Ngài không thể làm ngược lại: “Quả thật, mọi lời hứa của Thiên Chúa đều là "có" nơi Người. Vì thế, cũng nhờ Người mà chúng ta hô lên "Amen" để tôn vinh Thiên Chúa.” Tất cả những gì Thiên Chúa hứa với con người được thực hiện nơi Đức Kitô. Ví dụ, lời hứa con đàn cháu đống với tổ-phụ Abraham, lời hứa xóa sạch tội lỗi con người như trong Bài Đọc I, lời hứa cho con người được cuộc sống đời đời 
            2.2/ Chúng ta phải bắt chước Thiên Chúa để giữ những gì chúng ta hứa: như Phaolô, Sylvanô, và Timothy bắt chước Thiên Chúa: “Xin Thiên Chúa trung thành chứng giám cho chúng tôi! Lời chúng tôi nói với anh em chẳng phải vừa là "có" vừa là "không." Vì Đức Kitô Giêsu, Con Thiên Chúa, Đấng mà chúng tôi, là Sylvano, Timothy và tôi, rao giảng cho anh em, đã không vừa là "có" vừa là "không," nhưng nơi Người chỉ toàn là "có."” 
           Chính Đức Kitô đã từng dạy dỗ các môn đệ: “Có nói có, không nói không; đưa điều đặt chuyện là do ma quỉ gây ra” (Mt 5:37). Con người chúng ta rất dễ vi phạm những lời thề đã hứa với Thiên Chúa và tha nhân. Ví dụ, khi con người phạm tội là phá vỡ giao ước Sinai, khi cho người ly dị là phá vỡ giao ước hôn nhân, khi con người giũ áo dòng là phá vỡ lời khấn hưa với Chúa trước bàn thờ. Về phía xã hội còn thông thường hơn nữa: bao nhiêu hiệp định, hiệp ước, khế ước, chỉ là những mảnh giấy vô nghĩa chờ để phá vỡ.
            Thánh Phaolô nhấn mạnh: sở dĩ chúng ta có thể bắt chước Thiên Chúa, là vì Ngài đã ban Thánh Thần cho chúng ta: “Đấng củng cố chúng tôi cùng với anh em trong Đức Kitô và đã xức dầu cho chúng ta, Đấng ấy là Thiên Chúa. Chính Người cũng đã đóng ấn tín trên chúng ta và đổ Thần Khí vào lòng chúng ta làm bảo chứng.” Thánh Thần là Thần Chân Lý, Ngài giúp con người nhận ra sự thật, và ban sức mạnh để con người có thể nói, sống, và làm chứng cho sự thật. 


3/ Phúc ÂmChúa Giêsu là Thiên Chúa vì Ngài làm được những việc Thiên Chúa làm.
             3.1/ Chúa Giêsu có uy quyền chữa bệnh: Đi hành hương Do-Thái, chúng ta có thể phân biệt nhà của người Do-Thái từ nhà của người Palestines: Mái nhà của người Do-Thái không xuôi ra hai bên như mái nhà của người Palestines, mà phẳng như hình chữ nhật để người ta có thể dùng làm sân thượng để hóng mát. Vì thế, việc dỡ mái nhà xuống cũng đơn giản và ít gây thiệt hại. Anh bại liệt không thể tự mình đến với Chúa để xin chữa bệnh, anh phải nhờ tới 4 người khác để đưa anh tới với Chúa. Trong cuộc hành trình đức tin của mỗi người cũng thế, chúng ta không thể tự mình đến với Thiên Chúa; chúng ta cần những người trong Giáo Hội, giáo xứ, gia đình, và bạn hữu để dìu dắt chúng ta tới với Thiên Chúa. Có nhiều cách biểu lộ niềm tin. Thiên Chúa là Đấng thấu suốt mọi sự, Ngài sẽ vui mừng khi thấy con người biểu lộ niềm tin vào Ngài: Khi thấy cách biểu lộ niềm tin của họ, Chúa Giêsu bảo người bại liệt: "Này con, con đã được tha tội rồi."
              3.2/ Chúa Giêsu có uy quyền tha tội, và tha cách dễ dàng:
            (1) Tội lỗi và hình phạt: Theo truyền thống Do-Thái, hình phạt là hậu quả của tội lỗi: có thể của cá nhân hay của cha mẹ (Job 4:7, Jn 9:2). Các Rabbi có câu: “Không người bệnh nào được lành bệnh cho tới khi tất cả tội lỗi của anh được tha thứ.”
            (2) Lý luận của Chúa Giêsu: Khi Ta tha hình phạt qua việc chữa lành, là Ta tha tội, nguyên nhân của hình phạt.
            (3) Lý luận của các Kinh-sư: Trong đám đông, có nhiều các kinh-sư đến không phải để nghe Thiên Chúa giảng, nhưng để bới lá tìm sâu để có thể kết án Chúa, và họ nghĩ họ đã tìm ra lý do để kết án Chúa phạm thượng: "Sao ông này lại dám nói như vậy? Ông ta nói phạm thượng! Ai có quyền tha tội, ngoài một mình Thiên Chúa?" Điều họ ngạc nhiên nữa là Chúa Giêsu tha tội quá dễ dàng: khi bệnh nhân chưa thú tội và cũng chưa dâng lễ vật đền tội.
            (4) Chúa Giêsu dùng lý luận của các Kinh-sư và việc chữa lành để chứng minh cho họ biết Ngài là Thiên Chúa: “Tâm trí Đức Giêsu thấu biết ngay họ đang thầm nghĩ như thế, Người mới bảo họ: "Sao trong bụng các ông lại nghĩ những điều ấy? Trong hai điều: một là bảo người bại liệt: "Con đã được tha tội rồi," hai là bảo: "Đứng dậy, vác lấy chõng của con mà đi," điều nào dễ hơn?” Dĩ nhiên điều dễ làm hơn là bảo “Con đã được tha tội rồi;” vì không ai có thể kiểm chứng được, còn điều khó làm là bảo "Đứng dậy, vác lấy chõng của con mà đi;" phải là người có uy quyền mới làm được và mọi người đều kiểm chứng.
             “Vậy, để các ông biết: ở dưới đất này, Con Người có quyền tha tội, Đức Giêsu bảo người bại liệt, Ta truyền cho con: Hãy đứng dậy, vác lấy chõng của con mà đi về nhà!" Người bại liệt đứng dậy, và lập tức vác chõng đi ra trước mặt mọi người, khiến ai nấy đều sửng sốt và tôn vinh Thiên Chúa. Họ bảo nhau: "Chúng ta chưa thấy vậy bao giờ!"
             3.3/ Quyền tha tội được ủy thác cho Giáo Hội:
            (1) Trong Cựu Ước, đúng như lời các kinh-sư nói: Chỉ có Thiên Chúa mới có quyền tha tội. Ngài chỉ dạy cho các nhà lãnh đạo dạy dân thực hiện những lễ vật hy sinh để đền tội.
            (2) Như lời Tiên-tri Isaiah loan báo trong Bài Đọc I về việc Thiên Chúa sẽ làm một điều mới là gởi Đấng Thiên Sai tới để gánh tội cho con người, và lời Chúa Giêsu xác tín với các kinh sư: “Để chứng minh ở dưới đất này, Con Người có quyền tha tội; Người truyền cho người bại liệt: Hãy đứng dạy, vác chõng mà về;” Quyền tha tội đã được đưa từ trời xuống đất.
            (3) Chưa hết, Chúa còn trao quyền tha tội cho các môn đệ: “Các con tha cho ai, tội người ấy được tha. Các con cầm buộc ai, tội người ấy bị cầm lại.” Quyền tha tội từ khi Chúa Giêsu về trời, ở lại trong Giáo Hội qua các linh mục. Các ngài có thể thay quyền Chúa tha thứ mọi tội cho con người. 
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
            - Tội lỗi là một thực trạng trong cuộc sống con người. Hậu quả của tội lỗi làm con người xa cách Thiên Chúa, xa cách con người, và làm con người phải chết.
            - Con người không thể làm gì để xóa sạch tội của mình. Chỉ có Thiên Chúa mới có quyền tha tội và cho con người nối lại tình nghĩa với Ngài.
            - Để thực hiện điều này, Thiên Chúa gởi Người Con Một của Ngài tới để gánh tội xóa sạch tội cho con người nhờ Máu của Người đổ ra trên Thập Giá.
            - Người Con này có quyền tha tội và đã trao quyền này cho các môn đệ qua Bí-tích Hòa Giải để tha tội cho con người. Mỗi khi phạm tội, chúng ta hãy chạy đến với Bí-tích này để được tha tội và giao hòa với Thiên Chúa.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP
****************













Thứ Sáu, 17 tháng 2, 2012

THỨ BẢY 17/2/2012 CHUYỆN PHIẾN DẤU CHÂN ĐỊA ĐÀNG

Tác giả: 

Chuyện Phiếm đọc trong tuần Thứ 1 Mùa Chay năm B 26.02.2012



“Ngàn mây xám, chiều nay về đây treo lững lờ,”

“Và tiếng hát, về ru mình trong giấc ngủ vùi,,
Rồi từ đó, loài sâu nửa đêm quên đi ưu phiền,
để người về hát đêm hồng, địa đàng còn in dấu chân bước quên.”
(Trịnh Công Sơn – Dấu Chân Địa Đàng)



(Kn 18: 14-15)


“Địa đàng in dấu chân”, nơi nào thế? Phải chăng là: “đêm hồng”, là “bước quên”, hay “giấc ngủ vùi”? Thật ra thì, nghệ sĩ là những vị từng “ru với gió”, “mơ theo trăng”, và “vơ vẩn cùng mây”, làm sao định vị được địa đàng, tìm dấu chân.


Bần đạo đây, cũng đã cảm nghiệm được điều ấy, những hai lần. Lần đầu, là lần quyết tâm về “miền quá khứ”, có người cháu gọi bằng cậu từng 50 năm chôn vùi đời mình chốn viện tu rất khắc kỷ, ở “Castagniers” miền Nam nước Pháp.


Lần đó, bần đạo cứ là bon chen tìm đến với núi rừng trùng điệp với hy vọng xa vắng chốn miền có dấu chân “địa đàng”, nhưng không được. Bởi, lúc nào cũng văng vẳng nghe bên tai lời ca vui tựa hồ lời nghệ sĩ đang còn hát:


“Trời buông gió, và mây về ngang bên lưng đèo,
Mùa xanh lá, loài sâu ngủ quên trong tóc chiều.
Cuộc đời đó, nửa đêm tiếng ca như than phiền
Bàng hoàng lạc gió mây miền,
Trùng trùng, ngoài khơi nước lên sóng niềm.”
(Trịnh Công Sơn – bđd)


Lần thứ hai, bần đạo lại cũng tìm về miến dĩ vãng chốn khổ tu khi trước, ở vùng sâu vùng xa, rất gần Machu Pichu, xứ Pê-ruVà lần này, bần đạo cũng lại bị quật thê thảm đến độ toàn thân mình trở thành gần như hư vô/rỗng tuếch, cả đầu óc lẫn con người. Có ở tâm trạng ấy, mới thấy những gì gắn liền đời mình vẫn chẳng là gì cả. Chỉ là hư luống.

Hôm nay, ngồi “một mình trên phố” lố nhố chốn phồn hoa đô hội, lại thấy cần sự tĩnh mịch/lặng thinh, nhưng nay thấy hiếm. Cũng may còn có cái gì đó tựa ơn trên gửi đến cho mình vài ba tư tưởng nhỏ, rất thoáng chốc, giống lời thơ người nghệ sĩ vẫn ray rứt:


“Ngựa buông vó người đi chùng chân đã bao lần
Nửa đêm đó lời ca dạ lan như ngại ngùng
Vùng u tồi loài sâu hát lên khúc ca cuối cùng
Một đời bỏ ngõ đêm hồng
Ngoài trời còn dâng nước lên mắt em.”
(Trịnh Công Sơn – bđd)


Nhà thơ đây, những là “chùng chân”, ”buông vó” vì đêm đó nghe như “lời ca dạ lan ngại ngùng”. Còn bần đạo đâu dám làm thế, chỉ là bạn bè thấy mà thương bèn tặng cho một bài suy tư có dáng dấp của đấng bậc tải trên báo, có lời lẽ về những “lặng thinh là tình đã thuận”, bận bịu như sau:


“Lặng thinh, không chỉ là việc cần có trong thánh lễ, hoặc các buổi phụng vụ thôi, nhưng cả với cuộc đời nữa. Cuộc sống hôm nay chừng như quá ồn ào, kích bốc. Nhìn vào mọi chốn, người người đều thấy nơi nào cũng lào xảo đủ thứ tiếng động. Thanh âm đủ loại chừng như cứ nối tiếp và nối tiếp không ngừng từ các loa phóng thanh cứ ra rả từ các đài phát sóng, cho đến các loại máy ghi âm tân kỳ phát ra đủ mọi loại âm thanh, cùng tiếng nhạc. Cả khi người ta đang tập trung lái xe hay làm việc quần quật, hoặc ngủ nghỉ, lúc nào cũng thấy toàn những âm thanh và tiếng động. Khủng khiếp hơn, ngày hôm nay, các màn ảnh phát hình và vi tính chiếm đoạt gần như trọn vẹn thời gian trong cuộc sống của nhiều người. Thậm chí, cả vào lúc gia đình tụ họp để ăn uống, bên nhau chuyện trò hoặc nguyện cầu, lại vẫn thấy tình huống sôi động, rất dễ nóng bỏng.


Vâng. Ngày nay người người cần đến thinh lặng. Cần lặng thinh để suy tư, nghĩ ngợi, hiệp thông với Chúa. Nhận ra được sự hiện diện của Đức Chúa. Có lẽ, hơn bao giờ hết, con người cần đến sức mạnh của nội tâm, điều mà sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo từng minh định:


“Nhu cầu đời sống nội tâm là tất cả những gì ta cần đến, cho cuộc sống. Bởi, cuộc sống hôm nay, có nhiều thứ khiến con người mình dễ chia trí và ra khỏi mọi động thái suy tư tụng niệm, tự kiểm hoặc xem xét tình trạng an nhiên tự tại, của chính mình.” (x. GLHTCG chưong đoạn 1779)


Chính vì lý do đó, có lẽ cũng nên nhìn ra sự cần thiết để ra khỏi cảnh trí ồn ào nói trên thỉnh thoảng cũng nên tắt máy phát thanh, nghe nhạc trên dĩa hoặc ipod nhét nơi tai. Để rồi, thay vì bị phóng pháo bằng tiếng động, là những dụng cụ khiến con người trở nên thụ động, tê cứng, để mà tìm kiếm những giây phút hoặc kế hoạch chuyện trò với Chúa, qua nguyện cầu. Đó, là thế giới khác hẳn. Thế giới của an bình, lặng thinh. Rồi tự hỏi: sao tôi cứ phải lệ thuộc vào với máy móc, đến là thế…” (x. Lm John Flader, Question Time, The Catholic Weekly 15/1/2012 tr. 10)


Bần đạo đây, chẳng là đấng bậc hoặc thày sáu cao siêu vời vợi để dám đề nghị với chúng nhân anh em, mà chỉ dám đưa ra một nhận định cho riêng mình, ấy là: có lặng thinh mới thấy và nghe được điều Chúa nói với con người, thời đại này. Thấy, là thấy Chúa vẫy gọi mọi người hãy đến với Ngài. Nghe, là nghe lời thầm thì của lặng thinh Chúa nói nhỏ.


Khi xưa, môn đồ gần cận luôn thấy Chúa làm việc trong âm thầm, lặng thinh. Lặng thinh trong nguyện cầu. Thinh lặng khi chữa lành và ban ơn. Và nhiều nữa, kể sao cho hết. Ngày nay, Chúa vẫn còn khuyến cáo con rất nhiều thứ, dù họ không là đồ đệ chẳng tin vào Ngài, cả những hiện tượng ồn ào như thác lũ. Hiện tượng xảy đến với nhân gian, không chỉ cho người ngoài Đạo, mà cả đến dân con của Ngài nữa.


Hôm nay, phiếm luận chuyện Đạo xen lẫn chuyện đời, bần đạo thấy có bổn phận phải mở mắt cho to, vểnh tai cho rộng để thấy và nghe được tiếng lào xào của lặng thinh, lình bình nơi góc xó. Tiếng lào xào của thinh lặng nay không chỉ xảy ra nơi con trẻ, ở trời Tây, mà nhiều địa hạt khác, như: thi ca, âm nhạc, hội hoạ, y tế, giáo dục, và nhiều thứ khác, nói chung nơi cuộc sống thực tiễn.


Cuộc sống hôm nay, ngoài những thông tin rất “loạn” (hiểu theo nghĩa tiêu cực, bóng bảy) còn thấy xảy ra hiện tượng người người chạy trốn, thoát rất xa khỏi chốn miền thiên nhiên, triền miên im ắng. Cả và thiên nhiên hôm nay, lại cũng bị con người dính tay vào để tàn phá, chỉnh sửa hoặc bố ráp theo ý mình. Ý của người vẫn sử dụng tiền tài/của cải mà khuynh loát.
Nói cách khác, những ai bận tâm lo lắng chuyện như thế, nay cảm nghiệm thêm lời người nghệ sĩ xưa vẫn còn hát:


“Tiếng ca bắt nguồn từ đất khô
Từ mưa gió, từ vào trong đá xưa,
Đến bây giờ, mắt đã mù,
Tóc xanh đen vầng trán thơ,
Dòng sông đó, loài rong yên ngủ sâu,
Mới hôm nào bão trên đầu,
Lời ca đau trên cao.”
(Trịnh Công Sơn – bđd)


Phải chăng, tiếng lào xào của lặng thinh ở đâu đó, là “lời ca đau trên cao”? Phải chăng, chỉ những ai biết được sự lặng thinh/im ắng mới cảm nhận được những ồn ào của lặng câm, ở mọi chốn? Lời ca trên cao và tiếng ồn ào lặng câm ấy, không phải ai cũng cảm và cũng thấy, nhất là chuyện lào xào nghe rất “phiếm” như chuyện bên lề một điện thư/thư điện trên mạng mà bần đạo mới nhận từ bạn bè thân thương, như sau:


“Cảm ơn anh em đã gửi cho bọn này bài viết có "lời lẽ rất phá hoại". Phá cả Đạo lẫn đời. Đúng là “lời lẽ phá hoại” của những người rảnh rỗi không có việc gì làm, hoặc có chủ đích phá Đạo, hoặc được trả tiền để làm việc ấy.

Tôi không theo dõi loạt bài về "Cánh Chung luận" qua lại giữa Gm Nguyễn Văn Khảm và những người "ăn theo" hoặc "nói dựa", vì đâu hiểu gì vấn đề hóc búa là "Cánh Chung", làm sao luận.

Tôi nghĩ, mình cũng nên để tâm hồn lắng đọng mà đi vào thinh lặng, sẽ nghe và thấy nhiều, rồi hãy suy tư tản mạn chuyện "Lặng thinh" luôn thấy cần. Mấy hôm nay, đầu óc bọn tôi cứ rong chơi đâu đó, nên khó viết. Cầu mong mọi sự trở về với lặng thinh, bình dị để người người cảm nhận được sự im ắng của thiên nhiên, vạn vật, cuộc đời.

Cầu chúc anh em và mọi người vẫn cứ bình an sau khi đọc các bài viết mang tính "phá thối" ở trên mạng hay đâu đó, vẫn lền khên xoá không kịp.”


Và sau đó, một thư hồi âm từ bạn tri âm có tâm hồn cũng tri kỷ, lại rất kỹ như:


“Mong rằng Anh sẽ lắng nghe được "TIẾNG VỖ CỦA MỘT BÀN TAY" để cảm nhận và nghe được nội âm vang lừng của TÌNH YÊU THƯƠNG, để viết cho mọi người, không trừ một ai, cả những kẻ có ngôn từ phá hoại nữa.” (trích điện thư qua lại của bạn bè trong nhóm thư từ rất điện tử hôm 03/02/2012)


Với người đời, tiếng lào xào của lặng câm/im như hến, đến là thế. Đến như thế hoặc rặt như vậy vẫn cứ ào ào, khiến con người càng đi dần vào cuộc cãi tranh, giành giựt, tranh chấp. Tranh và chấp, cả khi có sự việc mà mình không tài nào nắm bắt, như chuyện “Cánh chung luận” của ai đó vẫn còn đó. Tranh và chấp, cả khi các thứ ấy không là “của bở” ăn được/uống được, mà vẫn chỉ lặng câm/im ắng, rất miên trường.


Với nhà Đạo, nỗi lắng đọng của lặng thinh mang ý nghĩa một mời gọi ở kinh sách Thánh Hiền đề cập gọi mời mọi người hãy để ý:


“Khi vạn vật chìm sâu trong thinh lặng,
lúc đêm trường chừng như điểm canh ba,
thì từ trời cao thẳm, lời toàn năng của Ngài
đã rời bỏ ngôi báu, ví tựa người chiến sĩ can trường
xông vào giữa miền đất bị tru diệt,
mang theo bản án không thể huỷ của Ngài
như lưỡi gươm sắc bén. “
(Khôn ngoan 18: 14-15)


Và, Lời của Chúa còn đó rất buồn như sau:


“Còn anh em, khi cầu nguyện,
hãy vào phòng, đóng cửa lại,
và cầu nguyện cùng Cha của anh,
Đấng hiện diện cả nơi kín ẩn.”
(Mt 6: 6)


Thiết tưởng, “Nơi kín ẩn” mà thánh sử nói đến, hẳn là chốn miền đầy ắp những lặng thinh, tình thông thoáng. Có lắng đọng hiệp thông, chung sống với thiên nhiên vạn vật, hoặc con người. Im ắng ấy, chắc không là tranh chấp, cãi tranh, giành giựt như ngôn sứ Habacúc từng khẳng định:


“Và Giavê, ngự trong thánh điện của Người ,
toàn thể cõi đất, hãy thinh lặng trước nhan Người!”
(Ha 2: 20)


Trên thực tế, nhiều “thánh điện của Chúa” vẫn trưng bảng chỉ dẫn “Nơi này, Nhà của Chúa” để nhắn nhủ dân con bước vào đó, hãy cứ lặng thinh, im ắng, nguyện cầu. Còn ngoài đời, làm sao tìm được chốn nguyện cầu im ắng, giống như thế? Vũ trụ vạn vật vẫn còn đó, đón chờ loài người hãy cùng chim muông, thú vật, đến mà xem. Xem rồi, hãy hoà mình mà lắng đọng trong thinh lặng. Và khi đã lặng thinh/im ắng rồi sẽ phát hiện tình huống rất dễ thương, như truyện kể ở bên dưới:


“Nhà hiền triết nọ dẫn học trò đi ngao du khắp chốn trên đời. Trong mười năm, thày trò theo nhau đi hầu hết các nước, gặp hầu như tất cả những người có học vấn. Nay, thày trò trở về, người nào người nấy kinh luân đầy một bụng. Kinh nghiệm đầy mình.


Trước khi vào thành, nhà hiền triết ngồi nghỉ trên bãi cỏ ở ngoại thành, nói với học trò:“Mười năm ngao du, các con đều trở thành kẻ sĩ học rộng hiểu nhiều. Nay, sự học sắp kết thúc, ta sẽ giảng cho các con bài học cuối.”


Học trò kéo đến vây quanh nhà hiền triết. Một lát sau, bậc thày hỏi:
-Hiện chúng ta đang ngồi ở đâu thế?
-Dạ thưa, ta đang ngồi nơi bãi cỏ hoang ngoài thành.
-Trên bãi hoang này, có cây gì mọc lên không?
-Dạ, Bãi hoang này, mọc toàn cỏ dại.”
-Đúng! Nơi đây mọc toàn cỏ dại. Giờ ta muốn biết có cách gì để trừ nó không?


Đám học trò thi nhau đáp:
-Dạ. Chỉ cần một xẻng là đi hết.
-Dạ thưa thày, dùng lửa để diệt cỏ, cung là phương cách rất hay!
-Thưa thày, theo em, rắc vôi lên là tốt nhất.
-Theo em, diệt cỏ phải trừ tận gốc. Chỉ cần nhổ được hết thứ đó là xong!


Nghe vậy, nhà hiền triết đứng dậy nói:
-Bài học hôm nay, đến đây là hết. Các con hãy đi về, làm theo cách suy nghĩ của mình mà diệt cỏ. Nếu không được, năm sau quay lại ta nói chuyện tiếp.


Năm sau, thày trò quay lại, ai cũng thấy cỏ hoang hôm trước nay trở thành đồng lúa ngô xanh tươi. Đám học trò quây quần bên đám ruộng, chờ thày đến, nhưng chờ mãi vẫn không thấy thày. Ít năm sau, nhà hiền triết quá vãng, đám học trò cũ của ông mới lại tìm đến nhau để tu sửa các tài liệu cùng luận thuyết của thày mình, chợt thấy ở chương cuối, ông có ghi thêm một câu: “Muốn diệt hết cỏ dại ở bãi hoang, chỉ một cách hay nhất, là trồng cấy mùa màng ở trên đó. Cũng vậy, muốn cho bãi cỏ nhà mình không còn lo buồn chuyện ồn ào/huyên náo, cách duy nhất là đem vào đó, sự lặng thinh tuyệt đối, mới được.”


Học thuyết của nhà hiền triết, có thể chỉ áp dụng trên giấy bút, thôi. Thực tế ở đời, người người nên ứng dụng sự lặng thinh cho riêng mình, rồi sẽ thấy. Thấy và đạt, chỉ khi nào ta quyết tâm sống bền bỉ, không nôn nóng. Đó mới là điểm son vàng của cái-gọi-là “lặng thinh là tình đã thuận.” Thuận, trong an vui. Hiền hoà. Lặng lẽ.



            Trần Ngọc Mười Hai

            Tuy chưa đạt
tình trạng an và vui ấy.
            Nhưng đã cảm nghiệm
về quỵ ngã,
            những hai lần


*************************************