Thứ Sáu, 6 tháng 1, 2012

TIN MỪNG HẰNG NGÀY

Ngày 6 tháng 1 GS
Bài đọc1 Jn 5:5-6, 8-13; Mk 1:6b-11.

1/ Bài đọc I:
5 Ai là kẻ thắng được thế gian, nếu không phải là người tin rằng Đức Giê-su là Con Thiên Chúa?
6 Chính Đức Giê-su Ki-tô là Đấng đã đến, nhờ nước và máu; không phải chỉ trong nước mà thôi, nhưng trong nước và trong máu. Chính Thần Khí là chứng nhân, và Thần Khí là sự thật.
9 Chúng ta vẫn nhận lời chứng của người phàm, thế mà lời chứng của Thiên Chúa còn cao trọng hơn, vì đó là lời chứng của Thiên Chúa, lời Thiên Chúa đã làm chứng về Con của Người.
10 Ai tin vào Con Thiên Chúa, người đó có lời chứng ấy nơi mình. Ai không tin Thiên Chúa, thì coi Thiên Chúa là kẻ nói dối, vì kẻ ấy không tin vào lời Thiên Chúa đã làm chứng về Con của Người.
11 Lời chứng đó là thế này: Thiên Chúa đã ban cho chúng ta sự sống đời đời, và sự sống ấy ở trong Con của Người.
12 Ai có Chúa Con thì có sự sống; ai không có Con Thiên Chúa thì không có sự sống.
13 Tôi đã viết những điều đó cho anh em là những người tin vào danh Con Thiên Chúa,
để anh em biết rằng anh em có sự sống đời đời.

2/ Phúc Âm:
6 Ông Gio-an mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, ăn châu chấu và mật ong rừng.
7 Ông rao giảng rằng: "Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người.
8 Tôi thì tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần."
9 Hồi ấy, Đức Giê-su từ Na-da-rét miền Ga-li-lê đến, và được ông Gio-an làm phép rửa dưới sông Gio-đan.
10 Vừa lên khỏi nước, Người liền thấy các tầng trời xé ra, và thấy Thần Khí như chim bồ câu ngự xuống trên mình.
11 Lại có tiếng từ trời phán rằng: "Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con."

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Đức Kitô có đủ bằng chứng cho chúng ta tin tưởng nơi Ngài.

Để tin điều gì, chúng ta cần có bằng chứng. Một trong những cách con người dùng để tin là qua các nhân chứng, vì chúng ta không luôn luôn được chứng kiến sự thật.
Các bài đọc hôm nay xoay quanh các nhân chứng của Đức Kitô. Tất cả đều chứng nhận ngài là Đấng Thiên Sai được Thiên Chúa sai đến để chuộc tội cho con người. Trong bài đọc I, thánh Gioan liệt kê 3 nhân chứng trong cuộc đời của Đức Kitô là Thánh Thần, Nước (lời chứng của Chúa Cha), và Máu của Đức Kitô đã đổ ra trong lịch sử để chuộc tội cho con người. Trong Phúc Âm, Gioan Tẩy Giả là nhân chứng của Đức Kitô cho sự hiện diện của Chúa Cha và Chúa Thánh Thần; vì ông là người đã chứng kiến những điều này khi ông làm phép thanh tẩy bằng nước cho Ngài.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc IThánh Thần, nước, và máu; cả ba cùng làm chứng một điều.
1.1/ Ba chứng nhân của Đức Kitô: “Chính Đức Giêsu Kitô là Đấng đã đến, nhờ nước và máu; không phải chỉ trong nước mà thôi, nhưng trong nước và trong máu. Chính Thánh Thần là chứng nhân, và Thánh Thần là sự thật. Có ba chứng nhân: Thánh Thần, nước và máu. Cả ba cùng làm chứng một điều.” Để hiểu đọan văn này, chúng ta cần đọc lại Phúc Âm Gioan, và hoàn cảnh lịch sử thời đại của Ngài. Đọan văn trong Phúc Âm nói về “nước và máu” như sau: “Nhưng một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người. Tức thì, “máu cùng nước” chảy ra. Người xem thấy việc này đã làm chứng, và lời chứng của người ấy xác thực; và người ấy biết mình nói sự thật để cho cả anh em nữa cũng tin” (Jn 19:34-35). Nước và Máu là 2 biến cố quan trọng trong cuộc đời của Chúa Giêsu: Nước khi Ngài chịu Phép Rửa bởi Gioan trong giòng sông Jordan. Máu khi Ngài chịu chết trên Đồi Golgotha.
Sở dĩ Gioan nhấn mạnh đến “nước  máu” là vì có bè rối “Thuần Tri Thức.” Cerinthus, người đại diện cho bè rối này, tin Chúa Kitô đến bằng “nước,” khi Ngài chịu Phép Rửa. Thánh Thần hiện xuống và ở lại trong Đức Kitô, và làm cho Ngài trở thành Con Thiên Chúa. Họ không chấp nhận “máu,” vì họ không tin Thiên Chúa phải chịu đau khổ. Họ giải thích: trên Đồi Golgotha, Thánh Thần xuất khỏi Đức Kitô và về trời. Có người còn cho người chịu đóng đinh là ông Simon, chứ không phải là Đức Kitô. Thánh Gioan muốn chống lại bè rối này bằng cách nhấn mạnh đến cả 3 nhân chứng đều cần thiết để tin vào Đức Kitô là Đấng Thiên Chúa sai đến để chuộc tội cho nhân loại.
(1) Thánh Thần: hiện xuống và xức dầu cho Đức Kitô khi Ngài chịu Phép Rửa (Mk 1:9-11, Mt 3:16-17, Lk 3:21, Jn 1:32-34, Acts 10:38). Phép Rửa này hoàn toàn khác với Phép Rửa của Gioan (Mk 1:8, Mt 3:11, Lk 3:16, Acts 1:5, 2:33). Thánh Thần hiện xuống với các Tông-đồ trong Ngày Lễ Ngũ Tuần (Acts 2:4), và trong đời sống của Giáo-Hội (Acts 8:17, 10:14).
(2) Nước: Tại biến cố Chúa Giêsu chịu Phép Rửa, Gioan Tẩy Giả làm chứng cho Đức Kitô: "Tôi đã thấy Thánh Thần tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người. Tôi đã không biết Người. Nhưng chính Đấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi: "Ngươi thấy Thánh Thần xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần." Tôi đã thấy, nên xin chứng thực rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn" (Jn 1:32-34).
(3) Máu: Theo truyền thống Do-Thái, máu súc vật phải đổ ra để làm lễ hy sinh đền tội cho con người. Đức Kitô là Chiên Thiên Chúa đến xóa tội trần gian bằng lễ tế hy sinh của Ngài trên Thập Giá. Ngài thiết lập bí-tích Thánh Thể trong Bữa Tiệc Ly, và Giáo Hội chúng ta hằng ngày cử hành Thánh Lễ để liên tục tái diễn hy lễ của Đức Kitô trên Thập Giá để xóa tội cho con người.
1.2/ Chúng ta phải tin lời của các chứng nhân: Đức Kitô đến từ Thiên Chúa.
(1) Lời chứng của Thiên Chúa cao trọng hơn lời chứng của người phàm: Luật dạy khi có 2 hoặc 3 nhân chứng, lời chứng đó là sự thật. Đức Kitô có rất nhiều nhân chứng: Gioan Tẩy Giả, các phép lạ Ngài làm, Kinh Thánh, các Tông-đồ …, nhưng lời chứng của Chúa Cha qua tiếng vọng từ trời “Đây là Con Ta yêu dấu,” và lời chứng của Thánh Thần qua hình ảnh chim bồ câu đậu lại trên Đức Kitô, là những lời chứng có thế giá hơn cả. Con người phải nhận những lời chứng này và tin vào Đức Kitô; vì “ai không tin Đức Kitô, thì coi Thiên Chúa là kẻ nói dối, vì kẻ ấy không tin vào lời Thiên Chúa đã làm chứng về Con của Người.”
(2) Tin vào Đức Kitô mới có sự sống đời đời: “Lời chứng đó là thế này: Thiên Chúa đã ban cho chúng ta sự sống đời đời, và sự sống ấy ở trong Con của Người. Ai có Chúa Con thì có sự sống; ai không có Con Thiên Chúa thì không có sự sống.”

2/ Phúc Âm"Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con."
3.1/ Sự khác biệt giữa hai Phép Rửa của Gioan và của Đức Kitô: Gioan Tẩy Giả phân biệt sự khác biệt như sau: "Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người. Tôi thì tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần." Phép Rửa làm bởi Gioan là phép rửa làm bởi con người để tha tội. Phép Rửa làm bởi Đức Kitô là phép rửa làm bởi Thiên Chúa, Đấng quyền thế hơn con người. Người chịu Phép Rửa sẽ được xức dầu bởi Chúa Thánh Thần, và được lãnh nhận mọi ơn cần thiết cho con người.

3.2/ Phép Rửa của Đức Kitô: “Hồi ấy, Đức Giêsu từ Nazareth miền Galilee đến, và được ông Gioan làm phép rửa dưới sông Jordan. Vừa lên khỏi nước, Người liền thấy các tầng trời xé ra, và thấy Thánh Thần như chim bồ câu ngự xuống trên mình. Lại có tiếng từ trời phán rằng: "Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con."”
(1) Tại sao Chúa Giêsu chịu Phép Rửa bởi Gioan? Phép Rửa của Gioan là phép rửa để tha tội. Tại sao Chúa Giêsu, Đấng không hề phạm tội, lại muốn chịu Phép Rửa của Gioan? Chính Gioan đã ngăn cản Ngài: "Chính tôi mới cần được Ngài làm phép rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi!" Nhưng Đức Giêsu trả lời: "Bây giờ cứ thế đã. Vì chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính." Bấy giờ ông Gioan mới chiều theo ý Người (Mt 3:14-15). Thánh Ambrose đưa một lý do khác: Chúa Giêsu, Đấng thánh thiện tinh tuyền, chịu Phép Rửa để thánh hiến nước của giòng sông Jordan; và Giáo Hội dùng nước này để rửa tội cho các tín hữu.
(2) Sự hiện diện của Chúa Thánh Thần dưới hình chim bồ câu: Truyền thống Do-Thái tin chim bồ câu tượng trưng cho sư hiền lành. Như Sách Tiên-tri trong Bài Đọc I mô tả Người tôi trung: Người chinh phục con người không bằng những lời đe dọa hay sức mạnh, nhưng bằng tình yêu và sự kiên nhẫn. Chúa Giêsu được xức dầu bởi Thánh Thần và được tấn phong để thi hành sứ vụ Cứu Độ.
(3) Tiếng của Chúa Cha tuyên phán: "Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con." Khác với trình thuật của Matthêu: “Đây là Con Ta yêu dấu, Ta hài lòng về Người.” Chúa Cha nói trực tiếp với Chúa Con, và bày tỏ sự hài lòng về tất vả mọi việc của Chúa Con làm. Nếu so sánh, chúng ta thấy trình thuật của Marcô gần với những gì tường thuật bởi tiên-tri Isaiah trong Bài Đọc I hơn.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Đức Kitô có đủ bằng chứng cho chúng ta tin tưởng nơi Ngài.
- Bổn phận của chúng ta là làm chứng cho Đức Kitô để mọi người đều tin vào ngài.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP
****************

CHÚC MỪNG NĂM MỚI



Thứ Tư, 4 tháng 1, 2012

TIN MỪNG HẰNG NGÀY


04/01/12 thứ tư đầu tháng trước lễ hiển linh
                                     Ga 1,35-42

chúng tôi đã gặp đấng mêsia
Ông Anrê, anh ông Simon Phêrô, là một trong hai người đã nghe ông Gioan nói và đi theo Đức Giêsu. Trước hết, ông gặp em mình là ông Simon và nói: ‘Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia.” Rồi dẫn em mình đến gặp Đức Giêsu. (Ga 1,40-42)
Suy niệm: Đức Chân phước Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã kêu gọi: “Niềm tin của Giáo Hội vào Đức Giê-su là một quà tặng vừa nhận được vừa để chia sẻ; đó chính là món quà lớn nhất mà Giáo Hội có thể tặng cho Á Châu” (Tông huấn Giáo Hội tại Á Châu). Và: “Giáo Hội cũng như mỗi kitô hữu không thể cất giữ hay độc quyền chiếm giữ sự mới mẻ và phong phú ấy, mà họ nhận được từ tay Chúa nhân lành để thông chia cho toàn thể nhân loại…” (Tông Thư “Sứ vụ Đấng Cứu Thế”, số 10). Khi nói với người em ruột Phêrô: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia” và dẫn em tới gặp Đức Giêsu, Anrê đã cho em mình “món quà lớn nhất “là Đức Kitô.” Và Ngài đã biến đổi con người của Phêrô: “Anh là Simon, con ông Gioan, anh sẽ được gọi là Kêpha.”
Mời Bạn: “Không ai cho cái mình không có”! Mời bạn theo gương Anrê, “đến mà xem...và ở lại với Người.” Điều đó có nghĩa là bản thân bạn cần đến gặp gỡ cá nhân với Đức Kitô đã rồi bạn mới có thể “chia sẻ sự thật về Đức Giêsu Kitô” cho anh em.
Sống Lời Chúa: Bạn quan tâm tới việc cám ơn rước lễ, sao cho đó là những giây phút bạn gặp gỡ, tâm sự với Chúa Giêsu.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã nói không ai thắp đèn rồi để dưới gầm gường, nhưng phải đặt trên giá hầu soi sáng cho cả nhà. Xin giúp chúng con đem ánh sáng Chúa chiếu tỏa ra xung quanh trong đời sống vui tươi, khiêm tốn phục vụ mỗi ngày.