Chủ Nhật IV Thường Niên, Năm B
1/ Bài đọc I:
15 Từ giữa anh em, trong số các anh em của anh em, Đức Chúa,
Thiên Chúa của anh em, sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như tôi để giúp anh em; anh
em hãy nghe vị ấy.16 Đó chính là điều mà anh em đã xin với Đức
Chúa, Thiên Chúa của anh em, tại núi Khô-rếp, trong ngày đại hội; anh em đã
nói: "Chúng tôi không dám nghe tiếng Đức Chúa, Thiên Chúa của chúng tôi
nữa, chúng tôi không dám nhìn ngọn lửa lớn này nữa, kẻo phải chết."17 Bấy
giờ Đức Chúa phán với tôi: "Chúng nói phải.18 Từ giữa anh
em của chúng, Ta sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như ngươi để giúp chúng, Ta sẽ
đặt những lời của Ta trong miệng người ấy, và người ấy sẽ nói với chúng tất cả
những gì Ta truyền cho người ấy. 19 Kẻ nào không nghe
những lời của Ta, những lời người ấy nói nhân danh Ta, thì chính Ta sẽ hạch tội
nó. 20 Nhưng ngôn sứ nào cả gan nhân danh Ta mà nói lời Ta
đã không truyền cho nói, hoặc nhân danh những thần khác mà nói, thì ngôn sứ đó
phải chết."
2/ Bài đọc II:
32 Tôi muốn anh chị em không phải bận tâm lo lắng điều gì. Đàn
ông không có vợ thì chuyên lo việc Chúa: họ tìm cách làm đẹp lòng Người.33 Còn
người có vợ thì lo lắng việc đời: họ tìm cách làm đẹp lòng vợ,34 thế
là họ bị chia đôi. Cũng vậy, đàn bà không có chồng và người trinh nữ thì chuyên
lo việc Chúa, để thuộc trọn về Người cả hồn lẫn xác. Còn người có chồng thì lo
lắng việc đời: họ tìm cách làm đẹp lòng chồng. 35 Tôi nói
thế là để mong tìm ích lợi cho anh chị em, tôi không có ý gài bẫy anh chị em
đâu, nhưng chỉ muốn đề nghị với anh chị em một điều tốt, để anh chị em được gắn
bó cùng Chúa mà không bị giằng co.
3/ Phúc Âm:
21 Đức Giê-su và các môn đệ đi vào thành Ca-phác-na-um. Ngay
ngày sa-bát, Người vào hội đường giảng dạy.22 Thiên hạ sửng sốt
về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ
không như các kinh sư.23 Lập tức, trong hội đường của họ, có
một người bị thần ô uế nhập, la lên24 rằng: "Ông Giê-su
Na-da-rét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi
biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa! "25 Nhưng
Đức Giê-su quát mắng nó: "Câm đi, hãy xuất khỏi người này! "26 Thần
ô uế lay mạnh người ấy, thét lên một tiếng, và xuất khỏi anh ta.27 Mọi
người đều kinh ngạc đến nỗi họ bàn tán với nhau: "Thế nghĩa là gì? Giáo lý
thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và
chúng phải tuân lệnh! "28 Lập tức danh tiếng Người đồn ra
mọi nơi, khắp cả vùng lân cận miền Ga-li-lê.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Vai trò của ngôn sứ
Ngôn sứ hay tiên tri là người nói thay cho Thiên Chúa, chứ không phải là những
người nói trước về tương lai. Trong Cựu Ước, ngôn sứ chỉ là một thiểu số nhỏ,
được Thiên Chúa tuyển chọn giữa dân để nói thay cho Ngài, nhất là trong thời
miền Bắc và miền Nam bị rơi vào tay ngọai bang và bị lưu đày.
Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong vai trò của vị ngôn sứ. Trong Bài Đọc I,
tác-giả Sách Đệ Nhị Luật cho biết lịch sử tại sao có ngôn sứ, và vai trò quan
trọng trong sứ vụ trung gian giữa Thiên Chúa và con người. Trong Bài Đọc II,
Thánh Phaolô giải thích cho cộng đòan Corintô biết lý do cụ thể của những người
không có gia đình, họ có nhiều thời giờ hơn để làm những chuyện của Thiên Chúa.
Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu là vị Ngôn Sứ Tối Cao, vì Ngài là chính Lời của Thiên
Chúa. Ngài giảng dạy như một ngôn sứ có uy quyền chứ không giống các Kinh-sư;
và Ngài có quyền trục xuất thần ô uế ra khỏi con người.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Lời
tiên tri về vị ngôn sứ Thiên Chúa hứa ban:
1.1/ Sự cần thiết của ngôn sứ: Truyền thống Do-Thái tin khi một người nhìn thấy
Thiên Chúa, người đó sẽ phải chết. Trong Cựu Ước, Thiên Chúa không xuất hiện để
nói với dân, nhưng Ngài dùng những nhà lãnh đạo như Moses và Aaron, để thực thi
những gì Thiên Chúa muốn. Để chứng nhận uy tín của những người lãnh đạo này,
Thiên Chúa cho dân thấy một phần quyền năng của Ngài như khi dân Israel được
triệu tập ở Horeb trong ngày đại hội. Nhưng dân chúng không thể chịu đựng nổi,
dù chỉ một phần uy quyền của Thiên Chúa, nên họ nói với Moses: "Chúng tôi
không dám nghe tiếng Đức Chúa, Thiên Chúa của chúng tôi nữa, chúng tôi không
dám nhìn ngọn lửa lớn này nữa, kẻo phải chết."
Vì lý do này, con người có lời hứa của Thiên Chúa: “Từ giữa anh em, trong số
các anh em của anh em, Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, sẽ cho xuất hiện một
ngôn sứ như tôi để giúp anh em; anh em hãy nghe vị ấy.” Nói cách khác, ngôn sứ
là người được chọn giữa con người, để trở thành trung gian giữa Thiên Chúa và con
người. Lời hứa này ám chỉ tất cả các ngôn sứ trong Cựu Ước Thiên Chúa gởi đến
cho con người. Tuy nhiên, đó cũng là lời hứa về Đức Kitô, vị Ngôn Sứ tòan hảo
của Thiên Chúa. Ngài cũng là người giữa con người, nhưng có uy quyền và sự
không ngoan của Thiên Chúa. Ngài là người trung gian hòan hảo giữa Thiên Chúa
và con người.
1.2/ Mối
liên hệ bộ ba giữa Thiên Chúa, ngôn sứ, và con người: Một sự hiểu biết về mối
liên hệ này sẽ giúp chúng ta nhận ra bổn phận và trách nhiệm của từng người:
(1) Thiên Chúa và ngôn sứ: Thiên Chúa chọn ngôn sứ và gởi ông đến với dân để
giúp họ, ông không tự chọn mình để làm ngôn sứ. Bổn phận của ngôn sứ là nói
những gì Thiên Chúa muốn nói với dân như lời Thiên Chúa phán: "Ta sẽ đặt
những Lời của Ta trong miệng người ấy, và người ấy sẽ nói với chúng tất cả
những gì Ta truyền cho người ấy.”
(2) Ngôn sứ và con người: Con người phải vâng nghe những gì ngôn sứ nói với họ;
vì “kẻ nào không nghe những lời của Ta, những lời người ấy nói nhân danh Ta,
thì chính Ta sẽ hạch tội nó.” Lời của Thiên Chúa là lời của ngôn sứ; bất tuân
lời ngôn sứ là bất tuân Thiên Chúa, và con người sẽ phải chịu trách nhiệm trước
Thiên Chúa. Con người dễ khinh thường các ngôn sứ, lý do vì ngôn sứ cũng là
người yếu đuối như họ; chẳng lạ gì mà con người hay có thái độ, “gần chùa gọi
bụt bằng anh!” Con người không được quên họ là ngôn sứ của Thiên Chúa.
(3) Ngôn sứ và Thiên Chúa: Ngôn sứ phải nói những gì Thiên Chúa nói; vì “ngôn
sứ nào cả gan nhân danh Ta mà nói lời Ta đã không truyền cho nói, hoặc nhân
danh những thần khác mà nói, thì ngôn sứ đó phải chết.” Ngôn sứ phải chịu trách
nhiệm trước Thiên Chúa, vì ông có trách nhiệm nói Lời của Thiên Chúa. Các ngôn
sứ dễ có khuynh hướng không nói Lời của Thiên Chúa, vì những lý do sau:
- Con người không muốn nghe sự thật vì sự thật mất lòng. Họ thích nghe những gì
vui vẻ, tếu táo, không đòi suy nghĩ, và nhất là không khơi dậy mặc cảm tội lỗi
nơi những việc họ đang làm. Khán giả cũng không thích ngôn sứ nói đến tội lỗi,
chết chóc, chiến tranh, hy sinh, từ bỏ, chịu đau khổ, vác Thánh Giá; vì thế, vị
ngôn sứ dễ tránh né những chủ đề này.
- Sợ những hậu quả xảy ra: không trở nên nổi danh, bị khán giả ghét bỏ, và có
thể nguy hiểm đến tính mạng nếu động chạm đến nhà cầm quyền và các thế lực
mạnh.
- Dùng danh Thiên Chúa để mưu cầu lợi lộc: nói khôi hài để được khán giả ưa
thích, nói vuốt đuôi để được thăng quan tiến chức, và nói văn chương để tỏ cho
khán giả tài năng của mình.
2/ Bài đọc II: Làm đẹp lòng Thiên Chúa hay đẹp lòng người đời?
2.1/ Ngôn sứ có bổn phận làm đẹp lòng Thiên Chúa: Truyền thống Do-Thái rất chú
trọng đến đời sống gia đình, và coi đó như một bổn phận thánh. Chỉ có một
trường hợp miễn trừ cho một người không phải kết hôn là để có nhiều thời giờ
nghiên cứu Lề Luật của Chúa. Trong cộng đòan tín hữu Côrintô, có lẽ cũng có sự
so sánh giữa 2 ơn gọi: độc thân để làm việc cho Chúa và ơn gọi gia đình; ơn gọi
nào tốt hơn? Thánh Phaolô cho các tín hữu một cái nhìn thiết thực qua hai ví
dụ:
(1) Các nam tu: “Đàn ông không có vợ thì chuyên lo việc Chúa, họ tìm cách làm
đẹp lòng Người; còn người có vợ thì lo lắng việc đời: họ tìm cách làm đẹp lòng
vợ, thế là họ bị chia đôi.”
(2) Các nữ tu: “Cũng vậy, đàn bà không có chồng và người trinh nữ thì chuyên lo
việc Chúa, để thuộc trọn về Người cả hồn lẫn xác. Còn người có chồng thì lo
lắng việc đời: họ tìm cách làm đẹp lòng chồng.”
Lý luận căn bản của Thánh Phaolô: Vì người độc thân không phải lo nghĩ đến
người phối ngẫu nên họ có thời giờ và dành mọi tập trung lo việc của Thiên
Chúa. Người có gia đình phải dành thời giờ và lo lắng cho người phối ngẫu, nên
họ sẽ có ít giờ hơn để lo việc của Thiên Chúa, và tâm trí họ bị chia đôi. Đấy
là chưa kể thời giờ phải lo cho các con nữa.
2.2/ Hãy chu
tòan bổn phận trong ơn gọi của mình: Điều quan trọng không ở chỗ là tranh luận
xem ơn gọi nào quan trọng hơn ơn gọi nào; nhưng ở chỗ mọi người hãy chu tòan ơn
gọi của mình. Nếu ở bậc độc thân mà không chịu lo việc của Thiên Chúa, cũng
chẳng làm lợi gì cho Ngài. Bậc nào cũng phải cộng tác với nhau và góp phần vào
việc làm vinh quang Thiên Chúa.
3/ Phúc Âm: Chúa
Giêsu là ngôn sứ kiểu mẫu của Thiên Chúa.
3.1/ Uy quyền giảng dạy: “Đức Giêsu và các môn đệ đi vào thành Capernaum. Vào
ngày Sabbath, Người vào hội đường giảng dạy. Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy
của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các
kinh sư.” Trình thuật không nói rõ sự khác biệt giữa Chúa Giêsu và các Kinh-sư,
nhưng chúng ta có thể dựa vào những trình thuật khác, nhất là xung đột ý kiến
giữa Ngài và họ, để liệt kê một số điều như sau:
(1) Chúa Giêsu chú trọng đến tâm hồn bên trong như: kính sợ Thiên Chúa, lòng
thương xót, thực thi ý Thiên Chúa, và bảo vệ sự sống; trong khi các Kinh-sư chú
trọng đến việc giữ các lễ nghi và Lề Luật hời hợt bên ngòai: giữ ngày Sabbath
và các luật thanh tẩy (Mk 2:23-24).
(2) Chúa Giêsu không sợ nói và đối diện sự thật (Mk 3:23-27); trong khi các
Biệt-phái và Kinh-sư luôn tìm cách che đậy những toan tính gian ác trong tâm
hồn (Mk 3:2-6).
3.2/ Uy
quyền trên các thần ô uế: Truyền thống Do-Thái tin có nhiều quỉ thần trong thế
giới, và chúng thường sống trong những nơi nhơ bẩn, hoang dã, và huyệt mả.
Chúng thường đe dọa những khách độc hành, đàn bà có thai, cô dâu chú rể, và trẻ
em ra ngòai ban đêm. Chúng thường họat động nhiều vào giữa trưa và khỏang thời
gian giữa mặt trời lặn và mặt trời mọc. Có nhiều thứ quỉ thần khác nhau, và
chúng thường chuyển những tính xấu của chúng tới những người chúng sở hữu như
quỉ mù, phong cùi, dâm dục … Chúa Giêsu nhiều lần khai trừ quỉ thần ra khỏi con
người như trình thuật hôm nay, và ngày xưa, “chức trừ quỉ” là một trong 7 chức
thánh được ban cho các linh mục.
(1) Chúa Giêsu không sợ áp lực của khán giả: Trình thuật kể ngay sau khi Chúa
Giêsu giảng dạy xong; lập tức, trong hội đường của họ, có một người bị thần ô
uế nhập, la lên rằng: "Ông Giêsu Nazareth, chuyện chúng tôi can gì đến ông
mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của
Thiên Chúa!" Chúng ta không ngạc nhiên về điều này, vì sứ vụ của Chúa
Giêsu và sứ vụ của quỉ thần hòan tòan đối nghịch nhau: Ngài đến để giải thóat
con người khỏi mọi quyền lực của tội; trong khi các quỉ thần cố gắng giữ con
người làm nô lệ cho tội.
(2) Chúa Giêsu trục xuất quyền lực ô uế đang ở trong khán giả: Ngài quát mắng
nó: "Câm đi, hãy xuất khỏi người này!" Thần ô uế lay mạnh người ấy,
thét lên một tiếng, và xuất khỏi anh ta. Điều khác biệt giữa Chúa Giêsu và các
nhà trừ quỉ khác, Ngài dùng uy quyền của chính Ngài biểu tỏ qua mệnh lệnh ngắn
và đơn giản; chứ không nhân danh một thứ quyền lực khác, và phải xử dụng một
công thức cố định.
(3) Khán giả được chữa lành: Khi chứng kiến những gì Chúa Giêsu làm, mọi người
đều kinh ngạc đến nỗi họ bàn tán với nhau: "Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì
mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng
phải tuân lệnh!"
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta đều là những ngôn sứ của Thiên Chúa. Bổn phận của chúng ta là phải
tìm hiểu, nói, sống, và làm chứng cho sự thật.
- Chúng ta sẽ phải đương đầu với những quyền lực chống lại sự thật của thế gian
và ma quỉ. Hậu quả có thể là không được chấp nhận, phỉ báng, tù đày, và ngay cả
nguy hiểm tính mạng.
- Chúng ta không được sợ hãi, để rồi thay vì nói sự thật của Thiên Chúa, chúng
ta nói những gì khán giả muốn nghe. Hãy nhớ chúng ta phải chịu trách nhiệm
trước mắt Thiên Chúa; Ngài sẽ đòi nợ máu chúng ta về sự hư đi của những người
chúng ta đã không có can đảm nói sự thật cho họ.
- Chúng ta phải tôn trọng những người có bổn phận rao giảng Tin Mừng, cho dẫu
họ nói những gì chúng ta không muốn nghe, nhưng là sự thật của Thiên Chúa.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP
****************