Thứ Tư Tuần VI TN2
Bài đọc: Jam
1:19-27; Mk 8:22-26.
1/ Bài đọc I:
19 Anh em thân mến của tôi, anh em nên biết rằng: mỗi người
phải mau nghe, đừng vội nói, và khoan giận,
20 vì khi nóng giận, con người không thực thi đường lối công
chính của Thiên Chúa.
21 Vì vậy, anh em hãy giũ sạch mọi điều ô uế và mọi thứ độc ác
còn lan tràn; hãy khiêm tốn đón nhận lời đã được gieo vào lòng anh em; lời ấy
có sức cứu độ linh hồn anh em.
22 Anh em hãy đem Lời ấy ra thực hành, chứ đừng nghe suông mà
lừa dối chính mình.
23 Thật vậy, ai lắng nghe Lời Chúa mà không thực hành, thì
giống như người soi gương thấy khuôn mặt tự nhiên của mình. 24 Người
ấy soi gương rồi đi, và quên ngay không nhớ mặt mình thế nào. 25 Ai
thiết tha và trung thành tuân giữ luật trọn hảo -luật mang lại tự do-, ai thi
hành luật Chúa, chứ không nghe qua rồi bỏ, thì sẽ tìm được hạnh phúc trong mọi
việc mình làm. 26 Ai cho mình đạo đức mà không kiềm chế
miệng lưỡi, là tự dối lòng mình, vì đó chỉ là thứ đạo đức hão.
27 Có lòng đạo đức tinh tuyền và không tỳ ố trước mặt Thiên
Chúa Cha, là thăm viếng cô nhi quả phụ lâm cảnh gian truân, và giữ mình cho
khỏi mọi vết nhơ của thế gian.
2/ Phúc Âm:
22 Đức Giêsu và các môn đệ đến Bethsaida. Người ta dẫn một
người mù đến và nài xin Đức Giêsu sờ vào anh ta. 23Người cầm
lấy tay anh mù, đưa ra khỏi làng, rồi nhổ nước miếng vào mắt anh, đặt tay trên
anh và hỏi: "Anh có thấy gì không?"
24 Anh ngước mắt lên và thưa: "Tôi thấy người ta, trông họ
như cây cối, họ đi đi lại lại."
25 Rồi Người lại đặt tay trên mắt anh, anh trông rõ và khỏi
hẳn; anh thấy tỏ tường mọi sự. 26 Người cho anh về nhà và
dặn: "Anh đừng có vào làng."
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Cần kiên nhẫn trong mọi
việc.
Con người thường có khuynh hướng làm việc gì là
muốn phải nhìn thấy kết quả ngay; nếu không sẽ dễ dàng chán nản và bỏ cuộc.
Nhưng “dục tốc bất đạt,” làm việc gì cũng cần có thời gian, vội vã quá sẽ không
mang lại kết quả mong muốn. Hơn nữa, việc càng khó, thời gian chờ đợi càng lâu.
Ví dụ, để có thể tốt nghiệp đại học, con người cần ít nhất 16 năm, qua những
giai đoạn: tiểu học, trung học đệ nhất cấp, đệ nhị cấp, và đại học. Mỗi giai
đoạn đều phải qua một kỳ thi để chứng tỏ khả năng để tiến tới giai đoạn mới.
Trong việc luyện tập các nhân đức cũng thế, con người phải kiên nhẫn với mình
và với người khác; bắt đầu luyện tập bằng các việc nhỏ dễ làm, rồi tiến dần đến
những nhân đức khó khăn hơn, trước khi có thể sống các nhân đức cách dễ dàng.
Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong đề tài phải
kiên nhẫn chờ đợi trong mọi sự. Trong Bài Đọc I, tác giả Thư Giacôbê khuyên các
tín hữu cần kiên nhẫn trong việc luyện tập các nhân đức; nhất là đức tự chủ
trong việc kiềm chế miệng lưỡi của mình. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu chữa người
mù qua hai giai đoạn. Lần đầu, anh mù chỉ thấy người ta đi đi lại lại như những
cây cối. Lần thứ hai anh mới nhìn thấy tất cả rõ ràng.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Anh
em hãy đem Lời Chúa ra thực hành, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình.
2.1/ Phải biết tự chủ con người: "Anh em
thân mến của tôi, anh em nên biết rằng: mỗi người phải mau nghe, đừng vội nói,
và khoan giận."
(1) Kiềm chế miệng lưỡi: là dấu chỉ của người
khôn ngoan. Người thiếu khôn ngoan là người nói búa xua, nói không kịp thở, nói
như sợ người khác giành nói hết. Vì nói không kịp suy nghĩ nên dễ bị bắt bẻ,
khuyếch đại, nói hành người khác, và chẳng có việc nào liên quan đến việc nào.
Có người cho Thiên Chúa rất khôn ngoan khi dựng nên con người có hai tai và hai
mắt; nhưng chỉ có một miệng và một lưỡi. Người khôn ngoan là người biết lắng
nghe và quan sát kỹ lưỡng trước khi cho người khác biết ý kiến của mình. Các
Sách Khôn Ngoan cho chúng ta rất nhiều lời khuyên về việc kiềm chế miệng lưỡi
để tránh những hậu quả tai hại cho mình.
(2) Kiềm chế tính nóng giận (orgê): "vì khi
nóng giận, con người không thực thi đường lối công chính của Thiên Chúa."
Chữ Hy-lạp tác-giả dùng ở đây (orgê), không phải tính nóng giận do lòng nhiệt
thành khi thấy điều sai trái; mà là tính nóng giận vượt quá sự khôn ngoan của
của con người—nóng giận cách vô lý. Thiên Chúa là Đấng duy nhất có quyền nóng
giận với con người, thế mà Ngài vẫn kiên nhẫn chờ đợi và ban mọi cơ hội để giúp
con người ăn năn tội lội của mình.
2.2/ Thực hành Lời Chúa: Lời Chúa tự nó có tiềm
năng giúp con người từ bỏ tội lỗi và tập tành nhân đức để mỗi ngày một trở nên
thánh thiện hơn. Để thực hiện được những điều này, con người cần phải chuẩn bị,
khiêm tốn đón nhận Lời Chúa, và đem ra thực hành. Dụ ngôn người gieo giống và 4
chỗ mà hạt giống được gieo vào giúp chúng ta thấu hiểu điều này. Vì thế, tác
giả khuyên các tín hữu: "Anh em hãy đem Lời ấy ra thực hành, chứ đừng nghe
suông mà lừa dối chính mình." Ông đưa ra hai áp dụng cụ thể của Lời Chúa:
(1) Lời Chúa là gương soi giúp con người nhận ra
tội lỗi của mình: "Thật vậy, ai lắng nghe Lời Chúa mà không thực hành, thì
giống như người soi gương thấy khuôn mặt tự nhiên của mình. Người ấy soi gương
rồi đi, và quên ngay không nhớ mặt mình thế nào." Như ai cũng phải soi
gương mỗi ngày trước khi ra đường, chúng ta cũng phải soi gương bằng việc đọc
hay lắng nghe Lời Chúa mỗi ngày để nhận ra con người thật của mình. Khi soi
gương, con người không chỉ soi gương cho qua lần chiếu lệ; nhưng còn phải sửa
sang sạch sẽ những gì nhơ bẩn và luộm thuộm trên thân thể của mình. Cũng vậy,
chúng ta cũng không thể nghe Lời Chúa cho qua lần chiếu lệ; nhưng phải để Lời
Chúa thấm nhập, xét đoán, và tinh luyện những tật xấu trong con người.
(2) Lời Chúa mang lại sự sống cho con người: Tác
giả Thư Giacôbê chú trọng đặc biệt đến việc thực hành Lời Chúa; vì nếu chỉ nghe
suông rồi quên mất, Lời Chúa sẽ chẳng sinh lợi ích gì cho bản thân: "Ai
cho mình đạo đức mà không kiềm chế miệng lưỡi, là tự dối lòng mình, vì đó chỉ
là thứ đạo đức hão." Lề Luật không giới hạn tự do của con người; nhưng
giúp con người nhận ra những nguy hiểm của tội lỗi và đừng làm nô lệ cho chúng.
Vì thế, việc thực hành Lề Luật giúp con người tránh tội, tự do thực sự, và
thành công trong mọi việc mình làm.
Tôn giáo thực thụ không chỉ hời hợt bằng các lễ
nghi bên ngoài; nhưng phải sinh lợi ích cho tha nhân và cho chính mình. Yêu
Chúa phải chứng tỏ qua việc yêu thương tha nhân; nhất là việc thăm viếng và
giúp đỡ các "cô nhi quả phụ lâm cảnh gian truân" và luyện tập con
người sao cho càng ngày càng tốt lành thánh thiện hơn.
2/ Phúc Âm: Chúa chữa người mù qua hai giai đoạn.
2.1/ Điểm đặc biệt của phép lạ: Phép lạ này chỉ
được tường thuật bởi Marcô mà thôi. Trong các phép lạ Chúa Giêsu làm, rất ít
khi Ngài dẫn bệnh nhân ra nơi khác như trình thuật hôm nay và trình thuật khi
Chúa Chúa Giêsu chữa người điếc và ngọng. Tác-giả không cho biết lý do, nhưng có
lẽ cho lợi ích của bệnh nhân. Người mù ở trong bóng tối lâu năm, nên rất nhạy
cảm với ánh sáng. Đức Giêsu chữa anh qua hai giai đoạn:
(1) Người cầm lấy tay anh mù, đưa ra khỏi làng,
rồi nhổ nước miếng vào mắt anh, đặt tay trên anh và hỏi: "Anh có thấy gì không?"
Anh ngước mắt lên và thưa: "Tôi thấy người ta, trông họ như cây cối, họ đi
đi lại lại."
(2) Rồi Người lại đặt tay trên mắt anh, anh
trông rõ và khỏi hẳn; anh thấy tỏ tường mọi sự.
Giống như những trình thuật khác trong Marcô, để
bảo đảm “bí mật Đấng Thiên Sai,” Chúa Giêsu cho anh về nhà và dặn: "Anh
đừng có vào làng."
2.2/ Hành trình đức tin trong việc nhận ra Thiên
Chúa: Nếu so sánh phép lạ này với phép lạ Chúa chữa người mù từ lúc mới sinh
trong Tin Mừng Gioan, chúng ta thấy có những điểm tương đồng và khác biệt: Điểm
giống nhau là Chúa Giêsu lấy nước miếng trộn với đất và đem xức vào mắt người
mù; điểm khác biệt là Chúa Giêsu lại đặt tay trên mắt anh trong Marcô và anh
thấy rõ ràng; trong khi Chúa Giêsu sai anh mù đi rửa mắt ở Hồ Siloam trong Gioan,
và sau khi rửa, anh được sáng.
Trình thuật Gioan nhấn mạnh đến sự khai mở niềm
tin của người mù qua những giai đoạn khác nhau. Trong mỗi giai đoạn, anh tuyên
xưng Chúa Giêsu bằng những tên khác nhau theo sự thật đầy đủ hơn: Lần thứ nhất
khi được hỏi bởi hàng xóm ai đã chữa anh, anh tuyên xưng “Người tên là Giêsu.”
Lần thứ hai, khi bị tra vấn bởi nhà cầm quyền, anh tuyên xưng: “Người là một
tiên-tri.” Lần thứ ba, khi bị tra vấn bởi các kinh-sư, anh nói: “Người phải đến
từ Thiên Chúa.” Lần cuối cùng, khi được hỏi bởi chính Chúa Giêsu, anh nhìn
nhận: “Người là Đấng Thiên Sai.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thời gian chờ đợi là kẻ thù của con người. Rất
nhiều người đã chán nản bỏ cuộc vì phải chờ đợi quá lâu, nhưng như lời Chúa
phán: “Ai bền vững đến cùng, kẻ ấy mới được cứu thoát.”
- Để có thể thành công, chúng ta đừng vội phải
nhắm ngay đích điểm, nhưng biết chia thành những giai đoạn với những đích nhỏ
hơn. Người kiên nhẫn, tuy chậm, nhưng bò lâu ngày rồi cũng tới đích.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét