Thứ Ba, 19 tháng 3, 2013

TIN MỪNG HẰNG NGÀY THỨ BA 19/3/2013 TUẦN V MÙA CHAY C, "Giuse đã thực hiện như lời Thiên thần Chúa truyền".



Thứ Ba Mùa Chay Năm C 
Lễ Thánh Giuse 



Bấm vào đây đọc Lời Chúa tiếng Anh

BÀI ĐỌC I: 2 Sm 7, 4-5a. 12-14a. 16
"Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu của Đavít, tổ phụ Người".
Trích sách Samuel quyển thứ hai.

Trong những ngày ấy, Chúa phán cùng Nathan rằng: "Hãy đi nói với Đavít tôi tớ Ta rằng: Khi ngày của ngươi đã viên mãn, ngươi sẽ yên nghỉ với các tổ phụ ngươi; sau đó, Ta sẽ cho miêu duệ ngươi lên kế vị và Ta sẽ làm cho triều đại người được vững bền. Chính người sẽ xây cất một ngôi nhà để kính danh Ta, và Ta sẽ làm cho ngôi báu triều đại người được củng cố đến muôn đời. Ta sẽ là Cha của người, và người sẽ là con Ta. Nhà của ngươi và triều đại của ngươi sẽ vững chắc đến muôn đời trước mặt Ta, ngôi báu ngươi sẽ vững bền mãi mãi". Đó là lời Chúa.



ĐÁP CA: Tv 41, 2. 3, và Tv 42, 3. 4
Đáp: Hồn con khát Chúa Trời, Chúa Trời hằng sống, ngày nào con được tìm về ra mắt Chúa Trời? (x. Tv 41, 3)

1) Như nai rừng khát mong nguồn nước, hồn con khát Chúa, Chúa Trời ôi!
2) Hồn con khát Chúa Trời, Chúa Trời hằng sống, ngày nào con được tìm về ra mắt Chúa Trời?
3) Xin chiếu giãi quang minh và chân thực của Chúa, để những điều đó hướng dẫn con, đưa con lên núi thánh và cung lâu của Ngài.
4) Con sẽ tiến tới bàn thờ Thiên Chúa, đến cùng Thiên Chúa làm cho con được hoan hỉ, mừng vui. Với cây cầm thụ con sẽ ca ngợi Chúa, ôi Chúa là Thiên Chúa của con.
BÀI ĐỌC II: Rm 4, 13. 16-18. 22
"Mặc dầu tuyệt vọng, ông vẫn tin".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.

Anh em thân mến, không phải nhờ lề luật mới có lời hứa ban cho Abraham hay dòng dõi của ông trở nên kẻ thừa kế thế gian, nhưng là nhờ sự công chính của đức tin. Vì thế, do đức tin, được coi như là theo ân sủng, lời hứa cho mọi dòng dõi được vững bền, không phải chỉ cho kẻ sinh bởi lề luật, mà còn cho kẻ sinh bởi đức tin của Abraham, tổ phụ của mọi người chúng ta, (như có lời chép rằng: Ta đã đặt ngươi làm cha nhiều dân tộc) trước mặt Thiên Chúa, Đấng ông đã tin, Đấng cho kẻ chết sống lại, và kêu gọi cái không có như có. Mặc dầu tuyệt vọng, ông vẫn tin rằng mình sẽ trở thành cha nhiều dân tộc, như có lời đã phán với ông rằng: "Dòng dõi ngươi sẽ như thế". Vì vậy, ông đã được kể như sự công chính. Đó là lời Chúa.
CÂU XƯỚNG TRƯỚC PHÚC ÂM: Tv 129, 5 và 7
(Mùa Chay: bỏ Alleluia) Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, phúc cho những ai ngụ nơi nhà Chúa, họ sẽ khen ngợi Chúa đến muôn đời. - Alleluia.
PHÚC ÂM: Mt 1, 16. 18-21. 24a
"Giuse đã thực hiện như lời Thiên thần Chúa truyền".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Giacóp sinh Giuse là bạn của Maria, mẹ của Chúa Giêsu gọi là Đức Kitô. Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây: Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse bạn của bà là người công chính, không muốn tố cáo bà, nên định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo. Nhưng đang khi định tâm như vậy, thì Thiên thần hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo: "Hỡi Giuse con vua Đavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần; bà sẽ sinh hạ một con trai mà ông đặt tên là Giêsu: vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội". Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời Thiên thần Chúa truyền. Đó là lời Chúa.
Hoặc đọc: Lc 2, 41-51a
"Kìa cha Con và mẹ đây đã đau khổ tìm Con".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Hằng năm cha mẹ Chúa Giêsu có thói quen lên Giêrusalem để mừng lễ Vượt Qua. Lúc bấy giờ Chúa Giêsu lên mười hai tuổi, cha mẹ Người đã lên Giêrusalem, theo tục lệ mừng ngày lễ Vượt Qua. Và khi những ngày lễ đã hoàn tất, hai ông bà ra về, trẻ Giêsu đã ở lại Giêrusalem mà cha mẹ Người không hay biết. Tưởng rằng Người ở trong nhóm các khách đồng hành, hai ông bà đi được một ngày đàng, mới tìm kiếm Người trong nhóm bà con và những kẻ quen biết. Nhưng không gặp thấy Người, nên hai ông bà trở lại Giêrusalem để tìm Người. Đó là lời Chúa.

THỨ BA TUẦN 5 MC

Th. Giuse, bạn trăm năm Đức Maria

Mt 1,16.18-21.24a

NGƯỜI CÔNG CHÍNH THẦM LẶNG

Khi tỉnh giấc, ông Giuse làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà. (Mt 1,24)
Suy niệm: Khi được truyền tin, Đức Mẹ còn đối đáp với sứ thần vài lời; còn trong đoạn Tin Mừng có thể gọi là truyền tin cho thánh Giuse hôm nay, chúng ta thấy thánh Giuse chỉ thinh lặng và thực hiện lời sứ thần Chúa dạy. Thế nhưng, cuộc đời thinh lặng - Kinh Thánh không ghi lại một câu nói nào của ngài - và thái độ mau mắn làm theo ý Chúa của ngài lại trở thành tiếng vang lớn cho các tín hữu ở khắp nơi và qua mọi thời. Hội Thánh đã nhận ra vị thế của ngài trong công cuộc cứu độ, cũng như sự độc đáo nơi cung cách sống của ngài, nên đã chọn ngài làm bổn mạng cho cả Hội Thánh. Hội Thánh còn dành riêng một tháng để các tín hữu chiêm ngắm mẫu gương của ngài.
Mời Bạn: Dù lời sứ thần truyền khác với dự định của mình, thánh Giuse vẫn nhanh nhẹn thi hành. Chú tâm tìm hiểu ý Chúa, rồi thinh lặng, âm thầm thi hành cách vui tươi điều Chúa muốn, đó là nét nổi bật trong cuộc đời công chính của thánh Giuse. Đó cũng phải là cung cách sống niềm tin của bạn trong Năm Đức Tin này.
Chia sẻ: Bạn rút ra được bài học gì từ cuộc đời thầm lặng của thánh Giuse?
Sống Lời Chúa: Nhìn ngắm tượng thánh Giuse thật lâu để cảm nhận được sự thinh lặng tìm hiểu ý Chúa và mau mắn thi hành của ngài.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa vẫn đang nói, đang ban lời cứu độ cho thế giới. Xin cho chúng con biết dành những phút thinh lặng để chăm chú lắng nghe Chúa nói, suy gẫm trong lòng, rồi loan báo lòng yêu thương của Thiên Chúa là Cha cho mọi người. Amen.




THỨ BA 19/3/ TUẦN V MÙA CHAY C, Thánh Giuse



Thánh Giuse 



Phúc Âm đã ca ngợi Thánh Giuse là người "công chính". Ý nghĩa của chữ "công chính" rất sâu xa.
Khi Phúc Âm nói Thiên Chúa "công chính hóa" người nào, điều đó có nghĩa Thiên Chúa, là Ðấng cực thánh và "chính trực", biến đổi người đó bằng cách cho họ được chia sẻ sự thánh thiện của Thiên Chúa, và bởi đó họ đáng được Thiên Chúa yêu mến.
Khi nói Thánh Giuse "công chính", Phúc Âm muốn nói rằng ngài hoàn toàn mở lòng cho tất cả những gì Thiên Chúa muốn làm cho ngài. Ngài trở nên thánh thiện vì tự mở lòng cho Thiên Chúa.
Với những gì còn lại chúng ta dễ phỏng đoán. Hãy suy nghĩ về tình yêu mà ngài đã theo đuổi và dành được con tim của Ðức Maria, và sự sâu xa của tình yêu mà hai người đã chia sẻ cho nhau trong cuộc hôn nhân.
Khi Thánh Giuse quyết định từ bỏ Ðức Maria khi thấy người có thai, điều này không trái với sự thánh thiện của Thánh Giuse. Phúc Âm có ghi lại một chữ quan trọng là ngài dự định thi hành việc này "cách âm thầm" vì ngài là "một người chính trực, nhưng không muốn tố giác bà để bị xấu hổ" (Mátthêu 1:19).
Người công chính thì đơn sơ, vui vẻ, hết lòng vâng lời Thiên Chúa -- khi kết hôn với Ðức Maria, khi đặt tên cho Hài Nhi Giêsu, khi săn sóc gia thất ở Ai Cập, khi đem gia thất về lại Nagiarét, khi sống âm thầm trong bao năm trường với đức tin và dũng cảm.
Vì Thánh Giuse không xuất hiện trong cuộc đời rao giảng công khai của Ðức Giêsu, nhiều sử gia tin rằng có lẽ Thánh Giuse đã từ trần trước khi Ðức Giêsu khởi đầu sứ vụ rao giảng.
Thánh Giuse là quan thầy của những người hấp hối, vì người ta cho rằng khi ngài từ trần có Ðức Giêsu và Ðức Maria ở bên cạnh, đó là điều mà tất cả chúng ta đều mong ước khi từ giã cõi đời.
Thánh Giuse còn là quan thầy của Giáo Hội hoàn vũ, của các người làm cha, các thợ mộc, và vấn đề công bằng xã hội.
Lời Bàn
Phúc Âm không nói gì nhiều về Thánh Giuse trong những năm sau khi trở về Nagiarét, ngoại trừ biến cố tìm thấy Ðức Giêsu trong Ðền Thờ (xem Luca 2:41-51). Ðiều này có thể hiểu Thiên Chúa muốn chúng ta biết rằng thánh gia cũng giống như mọi gia đình khác, những biến cố xảy ra cho thánh gia cũng xảy ra cho bất cứ gia đình nào, bởi đó khi bản tính bí ẩn của Ðức Giêsu bắt đầu lộ diện thì mọi người đều không tin là Ngài có thể xuất thân từ gia đình đó: "Ông ấy không phải là con bác thợ mộc hay sao? Mẹ của ông ấy không phải là bà Maria sao...? (Mt 13:55a). Và "Có gì hay ho xuất phát từ Nagiarét?" (Gioan 1:46b).
Lời Trích
"Thánh Giuse được Cha trên trời chọn để làm người bảo vệ đáng tin cậy, che chở những kho báu của Ngài, đó là Chúa Con và Ðức Maria, vị hôn thê của Thánh Giuse. Người đã thi hành nhiệm vụ này với sự trung tín cho đến khi Thiên Chúa gọi người, và nói: 'Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, hãy vào hưởng niềm vui của Thiên Chúa ngươi'" (Thánh Bernadine ở Siena viết về Thánh Giuse).


Trích từ NguoiTinHuu.com



Thứ Hai, 18 tháng 3, 2013

THỨ HAI18/3/2013 GX TÂN VIỆT:CHIA SẺ MÙA CHAY TẠI KHU ĐIỀU TRỊ PHONG BẾN SẮN 2013


GX TÂN VIỆT:CHIA SẺ MÙA CHAY TẠI KHU ĐIỀU TRỊ PHONG BẾN SẮN 2013





    Mùa chay là mùa ăn năn sám hối, đề quay về cùng Chúa và cũng là dịp để mỗi người cùng nhau thể hiện tình yêu thương,giúp đỡ nhau, chia sẻ tình bác ái cho nhau đến với những người khó khăn,đau yếu mùa chay Thánh năm nay đức Thánh Cha cũng mời gọi mỗi người thực thi xứ điệp mùa chay 2013 của đức Thánh Cha Bênêdictô 16 là ”tin trong đức mến khơi dậy lòng bác ái”.
    Được sự đồng hành của cha chánh sứ Da Minh Vũ Ngọc Thủ, cha phụ tá, hội đồng mục vụ giáo xứ, ban Caritas giáo xứ Tân Việt thực hiện chuyến bác ái thăm khu điều trị phong bến sắn (ấp 4, xã khánh bình,huyện tân uyên, tỉnh bình dương)và sau đó đến đền đức Mẹ bãi dâu Vũng Tàu cầu nguyện để thể hiện tình huynh đệ trong tình Cha con, hội đoàn, và cùng các hội viên trong ban Caritas với nhau.Chương trình đi hai ngày một đêm(11/3/2013 – 12/3/2013)
    Vào lúc 6giờ 00, thứ hai ngày 11/3/2013 xe khởi hành hướng đến khu điều trị phong Bến Sắn, trong chuyến đi này có khoảng 40 người, cha phụ tá Guise Đỗ Hữu Hạnh, đại diện các giáo họ, đoàn thể, các hội viên cùng những phần quà như: mì gói, bánh ngọt, gạo ,quần áo, đường và phong bì . tổng số là 400 phần quà gởi đến những bệnh nhân đau yếu.
    Sau 1giờ 30 phút chuyển bánh, đoàn đã đến khu điều trị phong bến sắn, khi đến nơi các bệnh nhân đã đến tương đối đông. xuống xe mọi người đã cùng nhau chuyển hàng xuống tập trung một nơi. Lúc này chúng tôi cũng thấy rất nhiều người đi bằng các phương tiện khác nhau tới như xe lăn, xe đạp, nạng.v.v..tập trung tại khoảng giữa khu khám bệnh của bệnh viện.
     Tới đây đoàn cũng được các Sơ đón tiếp và hướng dẫn cho mọi người đi thăm các bệnh nhân bệnh nặng,già yếu nằm một chỗ không đi được. đầu tiên là đoàn được sơ đỗ thị lan đón tiếp và giới thiệu đôi nét về các bệnh nhân và khu trại của các bệnh nhân nằm điều trị, sau đó là sơ chia thành hai nhón để tới các bệnh nhân bệnh nặng trong trại không thể đi ra ngoài để nhận quà được.
      Nhón chúng tôi đi cùng với cha phụ tá Giuse, chị thủ quỹ hàng xứ, đai diện các đoàn thể, cùng chị trưởng ban bác ái caritas lê thi thắm , khi chúng tôi vào các bệnh nhân đã nhận ra cha phụ tá Cha ,Cha, Cha có nhớ con không ! mọi người đi cùng cha đều bỡ ngỡ vì bao lâu rồi mà các bệnh nhân nhớ Cha, Cha đến đây bao lâu rồi làm gì mà các bệnh nhân nhớ vậy? Cha cũng bắt tay với bệnh nhân và cũng chia sẻ niền vui với mọi người qua những bịch bánh,phong bì các bệnh nhân rất mừng, vui vẻ và cha nói ngày trước Cha có tới đây sinh hoạt, và cắt tóc cho một số người nên khi tôi tới đây thì cũng có một số người biết. chia tay với các bệnh nhân nặng mọi người đến với các bênh nhân còn khỏe đang chờ ngoài khu tập trung tại khoảng giữa khu khám bệnh của bệnh viện.
      Đầu tiên Sơ Đỗ Thi Lan đã giới thiêu đến các bệnh nhân đoàn bác ái Caritas giáo xứ Tân Việt đến chia sẻ niền vui, tình thương mến đến với các bệnh nhân qua mùa chay 2013. Kế tiếp là Cha phụ tá cũng chia sẻ đôi lời đến các bệnh nhân, tiếp theo là một bệnh nhân lớn tuổi cũng đại diện khu trại cám ơn Cha,ban bác ái Caritas giáo xứ Tân Việt đã đến thăn hỏi, an ủi và chia sẻ đến các bệnh nhân trong khu điều tri phong, qua những thùng mì, gạo, bánh, đương, quần áo,và những phong bì. sau cùng là các bệnh nhân xếp hàng đưa phiếu rồi nhận quà vì quá đông để tránh sự thiếu xót của các bệnh nhân.
     Sau hơn 1 tiếng đồng hồ chuyển hàng, phát quà mọi người đã cảm thấy mệt, nhưng sự mệt mỏi này là sự vui mừng và phấn khởi vì đã đem tình thương, niềm vui đến các bệnh nhân, trong lúc phát quà mọi người nhận thấy rằng trên khuôn mặt của bệnh nhân đều vui tươi và phấn khởi , các cụ già, các bệnh nhân đã làm cho mọi người cảm nghiệm ra rằng những phần quà này đến đây có sớm không hay là quá trễ, hay là mọi người đi đã đủ chưa hay còn thiếu. điều đó nói lên rằng mỗi người ki-tô hữ, các hội viên ban Caritas của giáo xứ Tân Việt nhận thức rằng mình phải đi nhiều hơn nữa,và phải đi đến những nơi vùng sâu vùng xa hơn nữa để mau chóng tạo nên những niền vui,mụ cười cho những người bất hạnh dang chờ đón mỗi ngưởi chúng ta.
    “Ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ là một chén nước lã mà thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu” (Mt 10,42).
      Đã đến lúc chia tay các bệnh nhân,quí Sơ mọi người cũng không sao cảm động nhìn thấy những cảnh như Mẹ dắt con, Cháu dắt bà, tay bồng,tay bế,người thì xe lăn, người thì xe đạp, người thì cặp nạng v.v..điều đó muốn nói lên rằng hạnh phúc và niền vui đã đến với từng nhà, từng người khi đoàn đã đến nơi đây. Tuy nón quà không lớn nhưng nói lên lòng tương thân tương ái, “lá lành đùn lá rách.” Của mỗi người lúc này là 9 giờ mọi người tranh thủ chụp hình cùng 2 Sơ để làm kỷ niệm và chia tay hướng về đền Đức Mẹ Bãi Dâu Vũng Tàu.
     Tới nơi là 12 giờ đoàn đã chọn nhà Dòng Mến Thánh Giá Cái Mơn làm nơi nghỉ chân mọi người tranh thủ ổn định phòng song dùng cơm và nghỉ trưa tại đây.
      14 giờ 30 hành hương tượng Chúa chịu nạn trên núi, Đền Đức Mẹ Bãi Dâu, rồi sau đó tắm biển tự do.
      17 giờ 30 dùng cơm tối.
      21 giờ 30 mọi người quay quần bên nhau.
Chị Hiền phó ban caritas cũng không quản ngại công viêc, thời gian, và chị cũng rất quan tâm tới tất cả mọi người, chị cũng ủng hộ cho đoàn môt mồi thịt chó, bún mọi người thưởng thức thật ngon miệng.
       6 giờ sáng ngày hôm sau (12/3/2013) cha phụ tá Guise dâng thánh lễ tại nhà nguyện của dòng, Cha hiệp ý cầu nguyện cho ông bà cha mẹ, người thân, các thành viên trong chuyến đi này được bình an, hoàn thành công việc.
       6 giờ 30 thánh lễ kết thúc mọi người ăn sáng.
       7 giờ đoàn viếng tượng Chúa Ki-tô trên núi Tao Phùng.
       9 giờ đoàn tắm biển tại bãi sau Vũng Tàu
      12 giờ đoàn ăn cơm trưa tai nhà Dòng Mến Thánh Giá Cái Mơn.Bữa cơm trưa hôm nay cũng là bữa cuối, nhưng hôm nay cũng là ngày bà Lại tròn 70 tuổi ( Thượng thọ)là thành viên trong ban bác ái Caritas gx Tân Việt, Cha phụ tá đại diện đoàn cũng chúc mừng bà, bà cũng chân thành cám ơn Cha và mọi người, bà cũng chia sẻ niềm vui của bà với mọi người bằng một bữa ghẹ hấp dẫn và thật ngon miệng bữa cơm hôm nay cũng là bữa tiệc chia tay với mọi người tại nơi đây.
      15 giờ đoàn chia tay nhà Dòng Mến Thánh Giá Cái Mơn và tập trung dưới tượng đài Đức Mẹ tạ ơn Mẹ đã ban cho chúng con một chuyến đi được mọi sự thành công tốt đẹp,mọi người tạm biệt Mẹ bằng những lời cầu khẩn riêng tư của mỗi người.
      Trên đường về đoàn cùng dâng lên Mẹ những câu kinh tạ ơn Mẹ,ông chủ tịch Nguyện Thiện Thành cũng cảm ơn tất cả mọi người, các giáo họ, hội đoàn,đã cộng tác, để cho chuyến đi bác ái mùa chay năm 2013 được mọi sự thành công tốt đẹp, Sau đó cha phụ tá cũng cảm ơn mọi người và ban phép lành xin hẹn gặp lại trong những chuyến bác ái lần sau.
                                                      Giuse thanhtam k2















TIN MỪNG HẰNG NGÀY THỨ HAI 18/3/2013 MÙA CHAY C, "Ai trong các ngươi sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi".


Thứ Hai Tuần V Mùa Chay Năm C 



Bấm vào đây đọc Lời Chúa tiếng Anh

BÀI ĐỌC I: Đn 13, 1-9. 15-17. 19-30. 33-62 (Bài dài)

"Đây tôi phải chết, dù tôi không làm điều họ vu khống cho tôi".

Trích sách Tiên tri Đaniel.


Trong những ngày ấy, có một người đàn ông ở Babylon tên là Gioakim cưới bà vợ tên là Susanna, con của Helcia, bà rất xinh đẹp và có lòng kính sợ Chúa, vì cha mẹ bà là những người công chính, đã dạy con cho biết giữ luật Môsê. Lúc đó Gioakim rất giàu có, ông có một khu vườn gần nhà ông, các người Do-thái năng lui tới nhà ông, vì ông là người đáng kính hơn mọi người khác.
Năm đó, người ta đã đặt lên hai vị thẩm phán trong dân. Chúa đã phán về những kẻ ấy rằng: "Sự gian ác phát sinh từ Babylon bởi những vị thẩm phán kỳ lão, là những người xem ra như cai quản dân chúng". Các ông năng lui tới nhà ông Gioakim, nên tất cả những ai kiện tụng, thì tìm gặp các ông ở đó. Đến trưa, khi dân chúng trở về nhà, bà Susanna vào đi bách bộ trong vườn của chồng. Hai vị kỳ lão thấy bà mỗi ngày đi bách bộ trong vườn, thì phải lửa dục mê đắm; hai ông mất lương tâm, không còn muốn đưa mắt nhìn lên trời và không còn muốn nhớ đến sự xét xử công minh.
Hai ông chờ ngày thuận tiện, lúc bà Susanna vào vườn như hôm trước và hôm trước nữa, bà chỉ dẫn theo hai cô thiếu nữ, bà muốn tắm trong vườn, vì trời nóng bức. Lúc bấy giờ ở đó không có ai, ngoài hai vị kỳ lão đang ẩn núp và ngắm nhìn bà. Bà nói với hai cô thiếu nữ rằng: "Hãy mang dầu và thuốc thơm cho ta, rồi đóng cửa vườn lại để ta tắm".
Khi hai cô thiếu nữ ra khỏi vườn, hai vị kỳ lão đứng lên, tiến lại gần bà Susanna và nói: "Kìa cửa vườn đã đóng hết; không ai trông thấy ta đâu, chúng tôi say mê bà, bà hãy chấp nhận lời yêu cầu của chúng tôi và hiến thân cho chúng tôi. Nếu bà không chấp nhận, chúng tôi sẽ làm chứng nói bà phạm tội với một thanh niên, và vì đó, bà đã bảo các cô thiếu nữ ra khỏi vườn".
Bà Susanna thở dài và nói: "Tôi phải khốn cực tư bề; nếu tôi hành động như thế, tôi phải chết, và nếu tôi không hành động như thế, tôi cũng không thoát khỏi tay các ông. Nhưng thà tôi phải tay các ông mà không làm điều gì phạm tội trước mặt Chúa thì hơn!" Đoạn bà tri hô lên, nên hai vị kỳ lão cũng kêu lên tố cáo bà. Và một trong hai ông chạy ra mở cửa vườn. Khi người nhà nghe tiếng kêu la trong vườn, liền đổ xô ra cửa để xem coi việc gì đã xảy ra. Khi nghe hai vị kỳ lão kể lại, thì các đầy tớ rất lấy làm hổ thẹn, vì thiên hạ không khi nào nghe nói như thế về bà Susanna.
Ngày hôm sau, khi dân chúng tụ họp tại nhà ông Gioakim, chồng bà Susanna, hai vị kỳ lão cũng đến, lòng đầy những ý nghĩ bất chính để tố cáo bà Susanna cho người ta giết bà. Hai ông nói với dân chúng: "Các người hãy đi tìm bà Susanna, con ông Helcia, vợ của ông Gioakim". Người ta liền sai đi bắt bà, bà đến với cả cha mẹ, con cái và tất cả họ hàng. Nhưng tất cả họ hàng và mọi kẻ biết rõ bà đều khóc lóc.
Khi hai vị kỳ lão ra đứng giữa dân chúng, hai ông đặt tay lên đầu bà. Bà Susanna thì khóc lóc, ngước mắt lên trời, vì tâm hồn bà tin tưởng nơi Chúa. Hai vị kỳ lão nói: "Khi chúng tôi đi bách bộ một mình trong vườn, bà này đi vào với hai đứa tớ gái. Bà bảo hai đứa đóng cửa vườn lại, rồi đi ra. Bấy giờ một chàng thanh niên đã ẩn núp trong vườn tiến tới gần bà và phạm tội với bà. Lúc đó chúng tôi núp ở góc vườn, nhìn thấy tội ác, chúng tôi liền chạy đến bắt quả tang hai người đang phạm tội. Chúng tôi không bắt được chàng thanh niên, vì anh ta khoẻ mạnh hơn chúng tôi, nên đã mở cửa tẩu thoát. Còn bà này chúng tôi bắt được, chúng tôi gạn hỏi chàng thanh niên đó là ai, nhưng bà không muốn nói cho chúng tôi biết. Đó là điều chúng tôi xin làm chứng". Dân chúng tin lời hai ông nói, vì hai ông là bậc kỳ lão trong dân và là thẩm phán, nên họ lên án tử hình cho bà.
Bấy giờ bà Susanna kêu lớn tiếng rằng: "Lạy Chúa hằng hữu, Đấng thấu biết mọi bí ẩn và mọi sự trước khi xảy ra, Chúa biết họ làm chứng gian hại con; và đây con phải chết, dù con không làm điều gì mà họ ác ý vu khống cho con".
Chúa nhậm lời bà. Khi họ dẫn bà đi xử tử, thì Chúa giục thần trí một đứa trẻ tên là Đaniel. Trẻ này kêu lớn rằng: "Còn tôi, tôi không vấy máu bà này". Mọi người hướng mắt nhìn về đứa trẻ và nói: "Lời mi nói có ý nghĩa gì?" Đứa trẻ ra đứng giữa mọi người và nói: "Hỡi con cái Israel, các ngươi ngu muội thế sao, khi chưa xét xử và chưa biết sự thật thế nào, mà lại lên án một thiếu nữ Israel? Các người hãy xét xử lại, vì hai ông đã làm chứng dối hại bà".
Bấy giờ dân chúng vội vã trở lại. Các kỳ lão nói với Đaniel: "Này, em hãy ngồi giữa chúng tôi và bảo cho chúng tôi, vì Thiên Chúa đã cho em danh dự của bậc kỳ lão". Đaniel liền nói với họ: "Các người hãy tách biệt hai ông ra, và cho hai ông đứng xa nhau, rồi tôi xét xử hai vị kỳ lão cho".
Khi hai ông đứng xa nhau, Đaniel gọi ông thứ nhất đến và nói: "Hỡi lão già độc ác, các tội xưa kia ông đã phạm, giờ đây lại tái phạm, ông đã xét xử bất công, đã lên án kẻ vô tội và tha cho người có tội, mặc dầu có lời Chúa phán: 'Ngươi chớ giết kẻ vô tội và người công chính'. Vậy nếu ông thấy bà Susanna phạm tội, thì hãy nói hai người phạm tội dưới cây gì?" Ông ta trả lời: "Dưới cây chò". Đaniel liền nói: "Đúng là ông nói dối. Đây sứ thần Chúa được lệnh phân thây ông". Đaniel cho ông ta lui ra, và bảo dẫn ông kia đến. Đaniel nói với ông này rằng: "Hỡi dòng giống Canaan, chớ không phải dòng giống Giuđa, sắc đẹp đã mê hoặc ông, và tình dục đã làm cho tâm hồn ông ra đồi bại. Ông đã cư xử như thế đối với các thiếu nữ Israel, các cô vì sợ mà phạm tội với ông. Nhưng một thiếu nữ Giuđa không chiều theo tội ác của ông. Vậy bây giờ, ông hãy nói cho tôi biết ông đã bắt được hai người phạm tội dưới cây gì?" Ông ta trả lời: "Dưới cây sồi". Đaniel liền nói: "Cả ông nữa, ông hoàn toàn nói dối, cho nên thiên thần Chúa, tay cầm gươm, chờ đợi phân thây tiêu diệt ông".
Bấy giờ tất cả dân chúng hô lớn tiếng và chúc tụng Chúa đã cứu thoát những kẻ trông cậy vào Chúa. Đoạn họ nghiêm trị hai vị kỳ lão mà Đaniel đã minh chứng rằng hai ông đã vu khống, họ đã xử với hai ông như hai ông đã xử độc ác với kẻ khác. Chiếu theo luật Môsê, họ lên án xử tử hai ông, và ngày hôm đó máu người vô tội khỏi đổ oan. Đó là lời Chúa.
Hoặc đọc bài vắn này: Đn 13, 41c-62
Trong những ngày ấy, dân chúng lên án tử hình bà Susanna. Bấy giờ bà Susanna kêu lớn tiếng rằng: "Lạy Chúa hằng hữu, Đấng thấu biết mọi bí ẩn và mọi sự trước khi xảy ra, Chúa biết họ làm chứng gian hại con; và đây con phải chết, dù con không làm điều gì mà họ ác ý vu khống cho con".
Chúa nhậm lời bà. Khi họ dẫn bà đi xử tử, thì Chúa giục thần trí một đứa trẻ tên là Đaniel. Trẻ này kêu lớn rằng: "Còn tôi, tôi không vấy máu bà này". Mọi người hướng mắt nhìn về đứa trẻ và nói: "Lời mi nói có ý nghĩa gì?" Đứa trẻ ra đứng giữa mọi người và nói: "Hỡi con cái Israel, các ngươi ngu muội thế sao, khi chưa xét xử và chưa biết sự thật thế nào, mà lại lên án một thiếu nữ Israel? Các người hãy xét xử lại, vì hai ông đã làm chứng dối hại bà".
Bấy giờ dân chúng vội vã trở lại. Các kỳ lão nói với Đaniel: "Này, em hãy ngồi giữa chúng tôi và bảo cho chúng tôi, vì Thiên Chúa đã cho em danh dự của bậc kỳ lão". Đaniel liền nói với họ: "Các người hãy tách biệt hai ông ra, và cho hai ông đứng xa nhau, rồi tôi xét xử hai vị kỳ lão cho".
Khi hai ông đứng xa nhau, Đaniel gọi ông thứ nhất đến và nói: "Hỡi lão già độc ác, các tội xưa kia ông đã phạm, giờ đây lại tái phạm. Ông đã xét xử bất công, đã lên án kẻ vô tội và tha cho người có tội, mặc dầu có lời Chúa phán: 'Ngươi chớ giết kẻ vô tội và người công chính'. Vậy nếu ông thấy bà Susanna phạm tội, thì hãy nói hai người phạm tội dưới cây gì?" Ông ta trả lời: "Dưới cây chò". Đaniel liền nói: "Đúng là ông nói dối. Đây sứ thần Chúa được lệnh phân thây ông". Đaniel cho ông ta lui ra, và bảo dẫn ông kia đến. Đaniel nói với ông này rằng: "Hỡi dòng giống Canaan, chứ không phải dòng giống Giuđa, sắc đẹp đã mê hoặc ông, và tình dục đã làm cho tâm hồn ông ra đồi bại. Ông đã cư xử như thế đối với các thiếu nữ Israel, các cô vì sợ mà phạm tội với ông. Nhưng một thiếu nữ Giuđa không chiều theo tội ác của ông. Vậy bây giờ, ông hãy nói cho tôi biết ông đã bắt được hai người phạm tội dưới cây gì?" Ông ta trả lời: "Dưới cây sồi". Đaniel liền nói: "Cả ông nữa, ông hoàn toàn nói dối, cho nên thiên thần Chúa, tay cầm gươm, chờ đợi phân thây tiêu diệt ông".
Bấy giờ tất cả dân chúng hô lớn tiếng và chúc tụng Chúa đã cứu thoát những kẻ trông cậy vào Chúa. Đoạn họ nghiêm trị hai vị kỳ lão mà Đaniel đã minh chứng rằng hai ông đã vu khống; họ đã xử với hai ông như hai ông đã xử độc ác với kẻ khác. Chiếu theo luật Môsê, họ lên án xử tử hai ông, và ngày hôm đó máu người vô tội khỏi đổ oan. Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 22, 1-3a. 3b-4. 5. 6

Đáp: Dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con (c. 5ab).
1) Chúa chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi; trên đồng cỏ xanh rì, Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi; tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng. - Đáp.
2) Ngài dẫn tôi qua những con đường đoan chính, sở dĩ vì uy danh Người. (Lạy Chúa), dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con. Cây roi và cái gậy của Ngài, đó là điều an ủi lòng con. - Đáp.
3) Chúa dọn ra cho con mâm cỗ, ngay trước mặt những kẻ đối phương. Đầu con thì Chúa xức dầu thơm, chén rượu con đầy tràn chan chứa. - Đáp.
4) Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo tôi, hết mọi ngày trong đời sống; và trong nhà Chúa, tôi sẽ định cư cho tới thời gian rất ư lâu dài. - Đáp.

CÂU XƯỚNG TRƯỚC PHÚC ÂM: 2 Cr 6, 2b

Đây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ.

PHÚC ÂM: Ga 8, 1-11

"Ai trong các ngươi sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.


Khi ấy, Chúa Giêsu lên núi cây dầu. Và từ sáng sớm, Người lại vào trong đền thờ. Toàn dân đến cùng Người, nên Người ngồi xuống và bắt đầu giảng dạy. Lúc đó, luật sĩ và biệt phái dẫn đến Người một thiếu phụ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, và họ đặt nàng đứng trước mặt mọi người. Họ hỏi Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, thiếu phụ này bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, mà theo luật Môsê, hạng phụ nữ này phải bị ném đá. Còn Thầy, Thầy dạy sao?" Họ nói thế có ý gài bẫy Người để có thể tố cáo Người. Nhưng Chúa Giêsu cúi xuống, bắt đầu lấy ngón tay viết trên đất. Vì họ cứ hỏi mãi, nên Người đứng lên và bảo họ: "Ai trong các ngươi sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi". Và Người ngồi xuống và lại viết trên đất. Nghe nói thế họ rút lui từng người một, bắt đầu là những người nhiều tuổi nhất, và còn lại một mình Chúa Giêsu với người thiếu phụ vẫn đứng đó. Bấy giờ Chúa Giêsu đứng thẳng dậy và bảo nàng: "Hỡi thiếu phụ, những người cáo chị đi đâu cả rồi? Không ai kết án chị ư?" Nàng đáp: "Thưa Thầy, không có ai". Chúa Giêsu bảo: "Ta cũng thế, Ta không kết tội chị. Vậy chị hãy đi, và từ nay đừng phạm tội nữa". Đó là lời Chúa.

Th. Xirilô, giám mục Giêrusalem, tiến sĩ HT

Ga 8,12-20

ĐÓN NHẬN ÁNH SÁNG SỰ SỐNG


“Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo Tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống.” (Ga 8,12).
Suy niệm: “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng.” Người Pharisêu, dù gần Đức Giêsu là ánh sáng thế gian, nhưng không được sáng, vì họ không đón nhận Đấng là ánh sáng này. Trái lại, ai đón nhận Ngài, thì nhận được ánh sáng ban sự sống. Trong cuộc Xuất hành về Đất Hứa ngày xưa, Thiên Chúa hiện diện, soi sáng hành trình cho Dân Ngài bằng cột mây ban ngày và cột lửa ban đêm. Trong cuộc Xuất hành mới về quê trời, Đức Giêsu chính là ánh sáng giúp ta nhận dạng được ý nghĩa, mục đích cuộc đời, đồng thời soi sáng, dẫn đưa ta trên con đường đưa đến sự sống muôn đời. Bông hoa chỉ nở tươi nhờ ánh sáng mặt trời; cuộc đời ta không bao giờ có được nét duyên dáng đẹp tươi, nếu không được Đấng là ánh sáng chiếu soi.
Mời Bạn: Bạn cũng được Đức Giêsu gọi là ánh sáng thế gian, ánh sáng đó phải được đặt trên đế (x. Mt 5,15.16), nghĩa là phải chiếu tỏa ra bằng đời sống đức tin tốt đẹp của mình. Nhiều người quanh bạn đang bước đi trong bóng đêm của buồn sầu, chán nản, lầm lạc... bạn có là ánh sáng đẩy lui những bóng đêm ấy bằng đời sống chứng nhân không?
Sống Lời Chúa: Tôi, gia đình, cộng đoàn, giáo xứ tôi xét xem đã là ánh sáng cho môi trường mình đang sống chưa? Nếu chưa, sẽ phải làm gì?
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu là Ánh sáng trần gian, chúng con tin tưởng sẽ nhận được ánh sáng mang lại sự sống từ nơi Ngài. Xin giúp chúng con trở thành ánh sáng, xua tan những bóng tối của sự gian dối, bất công, của những đam mê lệch lạc, của sự ngã lòng và thiếu thiện chí. Amen.





THỨ HAI 18/3/2013 TUẦN V MÙA CHAY C, Thánh Cyril ở Giêrusalem (315? - 386)


Thánh Cyril ở Giêrusalem
(315? - 386) 

Những khó khăn trong Giáo Hội ngày nay chỉ là thiểu số so với các chấn động của lạc giáo Arian thời ấy khi họ từ chối thiên tính của Ðức Kitô. Thánh Cyril bị vướng vào vòng tranh luận, bị Thánh Giêrôme kết án là người theo tà thuyết Arian và sau cùng ngài đã được thanh minh bởi những người của thời ấy và được tuyên xưng là Tiến Sĩ Hội Thánh năm 1822. 

Chúng ta không biết nhiều về cuộc đời thơ ấu của Thánh Cyril. Các sử gia ước đoán ngài sinh trong khoảng năm 315, và lớn lên ở Giêrusalem. Về gia đình ngài, có lẽ cha mẹ ngài là Kitô Hữu và dường như ngài rất thảo kính cha mẹ. Ngài thúc giục các dự tòng kính trọng các bậc sinh thành "vì dù chúng ta có đền đáp thế nào đi nữa, cũng không thể nào bù đắp được công ơn sinh thành của cha mẹ." Chúng ta còn được biết ngài có một em gái và một cháu trai, Gelasius, sau này là giám mục và là thánh. 
Qua các văn bút ngài để lại, dường như ngài thuộc về nhóm gọi là Solitary (Ðộc Thân). Họ là những người sống tại gia nhưng giữ đức khiết tịnh, khổ hạnh và phục vụ. 
Sau khi được tấn phong là phó tế và sau đó là linh mục, đức giám mục Maximus đã giao cho ngài trách nhiệm dạy giáo lý cho dự tòng và tân tòng. Sách Giáo Lý ngài viết vẫn có giá trị như một thí dụ điển hình cho nền tảng thần học và phụng tự của Giáo Hội vào giữa thế kỷ thứ tư. 
Khi Ðức Maximus từ trần, Cha Cyril được tấn phong làm giám mục của Giêrusalem. Vì ngài được sự hỗ trợ của giám mục Caesarea là Acacius, người theo lạc thuyết Arian, nên phe chính giáo chỉ trích việc bổ nhiệm này, và phe Arian lại nghĩ rằng họ có thêm một đồng minh. Cả hai phe đều sai lầm, và Ðức Cyril thì kẹt ở giữa. 
Khi nạn đói càn quét Giêrusalem, dân chúng chạy đến Ðức Cyril xin giúp đỡ. Vì không có tiền, ngài phải bán một số đồ dùng của nhà thờ để giúp đỡ người đói. Nhưng có những lời dèm pha rằng một số áo lễ được dùng làm y phục cho kép hát. 
Sự bất hòa giữa Acacius và Ðức Giám Mục Cyril bắt đầu là về vấn đề quản hạt chứ không phải vấn đề tín lý. Là giám mục của Caesarea, Acacius nghĩ rằng mình có toàn quyền trên các giám mục Palestine. Nhưng Ðức Giám Mục Cyril lý luận rằng thẩm quyền của Acacius không bao gồm Giêrusalem vì Giêrusalem là một "tông tòa" -- là ngai toà do các tông đồ thiết lập. Khi Ðức Cyril không hiện diện trong các công đồng mà Acacius triệu tập, Acacius và phe cánh đã kết án ngài là đã bán vật dụng của nhà thờ để kiếm tiền và trục xuất ngài. 
Ðức Cyril phải lưu đầy ở Tarsus trong khi chờ đợi việc kháng cáo. Sau đó, ngài xuất hiện trong Công Ðồng Seleucia, trong đó phe bán-Arian (vừa theo chính giáo, vừa theo Arian) chiến thắng. Kết quả là Acacius bị truất phế và Ðức Cyril được trở về ngai toà cũ. Tuy nhiên, hoàng đế không hài lòng về kết quả này, và một lần nữa, Ðức Giám Mục Cyril lại bị trục xuất và chỉ trở về khi hoàng đế Julian lên ngôi. Ðược vài năm sau, một sắc lệnh của tân hoàng đế Valens trục xuất tất cả các giám mục được Julian hồi phục, và Ðức Cyril lại phải lưu đầy cho tới khi Valens qua đời. 
Có thể nói một nửa nhiệm kỳ giám mục của Ðức Cyril là bị đầy ải. Sau cùng, ngài trở về Giêrusalem, lúc ấy đã tan nát vì lạc giáo, ly giáo và tranh giành, tàn lụi vì tội lỗi. Năm 381, ngài đến tham dự Công Ðồng Constantinople, là công đồng hoàn tất bản kinh Tin Kính Nicene và phe Arian bị kết án. Ðức Cyril được thanh minh và được tẩy sạch mọi tiếng xấu trước đây, các giám mục tham dự Công Ðồng đã ca ngợi ngài như vị quán quân chính thống chống với bè phái Arian. 
Ðức Cyril sống an bình tám năm ở Giêrusalem và từ trần năm 386, khi ngài khoảng bảy mươi tuổi. 
Lời Bàn 
Những ai tưởng rằng đời sống các thánh thật đơn giản và êm đềm, không một chút tranh chấp trần tục, chắc phải kinh hoàng về cuộc đời Thánh Cyril. Tuy nhiên, mọi Kitô Hữu không thể thoát khỏi những khó khăn như chính Thầy mình đã trải qua. Theo đuổi chân lý là một con đường phức tạp và không cùng, và mọi người thiện tâm đều đau khổ vì sự tranh giành và lầm lạc. Những chướng ngại về tri thức, tình cảm và chính trị có thể trì trệ đôi chút những người như Thánh Cyril. Nhưng đời sống của họ, nhìn toàn bộ, sẽ là những mẫu mực của sự thành tâm và dũng cảm. 


Trích từ NguoiTinHuu.com





Chủ Nhật, 17 tháng 3, 2013

TIN MỪNG HẰNG NGÀY CHÚA NHẬT 17/3/2013 TUẦN V MÙA CHAY C, "Ai trong các ngươi sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi".


Chúa Nhật Tuần V Mùa Chay Năm C 


Bấm vào đây đọc Lời Chúa tiếng Anh

BÀI ĐỌC I: Is 43, 16-21

"Đây Ta sẽ làm lại những cái mới và sẽ cho dân Ta nước uống".


Trích sách Tiên tri Isaia.

Chúa là Đấng mở đường dưới biển, mở lối đi dưới dòng nước; Chúa là Đấng dẫn dắt xe, ngựa, quân binh và dũng sĩ. Tất cả đều ngủ và không chỗi dậy nữa; chúng bị ngộp thở và tắt đi như tim đèn. Người phán: "Các ngươi đừng nhớ đến dĩ vãng, và đừng để ý đến việc thời xưa nữa. Đây Ta sẽ làm những cái mới và giờ đây chúng sẽ xuất hiện, như các ngươi sẽ biết; Ta sẽ mở đường trong hoang địa, và khai sông nơi đất khô khan. Thú đồng, muông rừng và chim đà sẽ ca tụng Ta, vì Ta đã làm cho hoang địa có nước và đất khô khan có sông, để dân yêu quý của Ta có nước uống; Ta đã tác tạo dân này cho Ta, nó sẽ ca ngợi Ta". Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 125, 1-2ab. 2cd-3. 4-5. 6

Đáp: Chúa đã đối xử đại lượng với chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan (c. 3).
1) Khi Chúa đem những người Sion bị bắt trở về, chúng tôi dường như người đang mơ, bấy giờ miệng chúng tôi vui cười, lưỡi chúng tôi thốt lên những tiếng hân hoan.
2) Bấy giờ dân thiên hạ nói với nhau rằng: Chúa đã đối xử với họ cách đại lượng. Chúa đã đối xử đại lượng với chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan.
3) Lạy Chúa, xin hãy đổi số phận chúng con, như những dòng suối ở miền nam. Ai gieo trong lệ sầu, sẽ gặt trong hân hoan.
4) Thiên hạ vừa đi vừa khóc, tay mang thóc đi gieo. Họ trở về trong hân hoan, vai mang những bó lúa. - Đáp.

BÀI ĐỌC II: Pl 3, 8-14

"Vì Đức Kitô, tôi đành chịu thua thiệt trong mọi sự, và tôi trở nên giống Người trong sự chết".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Philipphê.

Anh em thân mến, tôi coi tất cả mọi sự như thua thiệt trước cái lợi tuyệt vời là được biết Đức Giêsu Kitô, Chúa tôi. Vì Người, tôi đành chịu thua thiệt, và coi mọi sự như phân bớn, để lợi được Đức Kitô, và được ở trong Người, không phải do sự công chính của tôi dựa vào lề luật, nhưng do sự công chính bởi tin Đức Giêsu Kitô: sự công chính bởi Thiên Chúa là sự công chính bởi đức tin để nhận biết Người và quyền lực phục sinh của Người, để thông phần vào sự đau khổ của Người và trở nên giống Người trong sự chết, với hy vọng từ cõi chết được sống lại.
Không phải là tôi đã đạt đến cùng đích, hoặc đã trở nên hoàn hảo, nhưng tôi đang đuổi theo để chiếm lấy, bởi vì chính tôi cũng đã được Đức Giêsu Kitô chiếm lấy. Anh em thân mến, chính tôi chưa tin rằng tôi đã chiếm được, nhưng tôi đinh ninh một điều là quên hẳn đàng sau, mà hướng về phía trước, tôi cứ nhắm đích đuổi theo để đoạt giải ơn kêu gọi Thiên Chúa đã ban từ trời cao trong Đức Giêsu Kitô. Đó là lời Chúa.

CÂU XƯỚNG TRƯỚC PHÚC ÂM: Ga 8, 12b

Chúa phán: "Ta là sự sáng thế gian, ai theo Ta, sẽ được ánh sáng ban sự sống".
PHÚC ÂM: Ga 8, 1-11 

"Ai trong các ngươi sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu lên núi cây dầu. Và từ sáng sớm, Người lại vào trong đền thờ. Toàn dân đến cùng Người, nên Người ngồi xuống và bắt đầu giảng dạy. Lúc đó, luật sĩ và biệt phái dẫn đến Người một thiếu phụ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, và họ đặt nàng đứng trước mặt mọi người. Họ hỏi Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, thiếu phụ này bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, mà theo luật Môsê, hạng phụ nữ này phải bị ném đá. Còn Thầy, Thầy dạy sao?" Họ nói thế có ý gài bẫy Người để có thể tố cáo Người. Nhưng Chúa Giêsu cúi xuống, bắt đầu lấy ngón tay viết trên đất. Vì họ cứ hỏi mãi, nên Người đứng lên và bảo họ: "Ai trong các ngươi sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi". Và Người ngồi xuống và lại viết trên đất. Nghe nói thế, họ rút lui từng người một, bắt đầu là những người nhiều tuổi nhất, và còn lại một mình Chúa Giêsu với người thiếu phụ vẫn đứng đó. Bấy giờ Chúa Giêsu đứng thẳng dậy và bảo nàng: "Hỡi thiếu phụ, những người cáo chị đi đâu cả rồi? Không ai kết án chị ư?" Nàng đáp: "Thưa Thầy, không có ai". Chúa Giêsu bảo: "Ta cũng thế, Ta không kết tội chị. Vậy chị hãy đi, và từ nay đừng phạm tội nữa". Đó là lời Chúa.

CHÚA NHẬT TUẦN 5 MC – C

Ga 8,1-11

LÒNG CHÚA NHÂN TỪ

Lúc đó, các kinh sư và người Pharisêu dẫn đến trước mặt Đức Giêsu một phụ nữ bị bắt gặp đang ngoại tình… Họ nói với Người: “Theo sách Luật, ông Mô-sê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao ?” Chúa Giê-su nói với họ: “Ai trong các ông sạch tội thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi.” (Ga 8,3-7)
Mời Bạn: Bạn hãy nhìn các kinh sư và biệt phái: cả đêm thì đi rình mò… từ sáng sớm đã lo đi tố cáo.
Còn ngưòi phụ nữ thì đầu tóc bù xù, mặt cúi gầm xuống không dám ngẩng lên… Bẽ bàng, nhục nhã: Hàng trăm con mắt đang đổ dồn vào chị với một vẻ khinh bỉ!… Chị rùng mình đau nhói: nghĩ đến những hòn đá sắp sửa ném vào thân chị!
Mời bạn cũng hãy nhìn ngắm Chúa Giêsu đang ngồi giữa đám đông, nhân từ, cảm thông, tế nhị. Phải chăng lòng Ngài cũng đang trĩu nặng vì những tội lỗi của nhân loại và của chính bạn nữa?
- Đến lượt bạn, bạn hãy chọn một chỗ đứng trước mặt Chúa, bên người phụ nữ tội lỗi này, nhớ lại tội lỗi mình để chờ Chúa xử án… Từ chỗ đứng đó bạn mới thấy được lòng nhân từ thương xót của Ngài.
Sống Lời Chúa: Xét lại tội lỗi của mình và khóc với Chúa; rồi bạn xin Ơn Tha Thứ qua Bí Tích Hòa Giải.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, biết bao lần con đã giống như các kinh sư và biệt phái trong cách đối xử với người khác : lên án, chỉ trích, luận tội… Trong tư thế người phụ nữ, thì lạy Chúa, con cũng đã ngoại tình, ngoại tình không riêng ở Điều Răn thứ Sáu mà cả mỗi khi con phản bội Chúa, tôn thờ tiền bạc, thú vui, những thứ không phải là Chúa… Xin cho con biết đau đớn vì tội lỗi và quyết tâm trở về với Chúa.

CHÚA NHẬT 17/3/2013 TUẦN V MÙA CHAY C, Thánh Patrick (389?-461?)



Thánh Patrick
(389?-461?) 

Truyền thuyết về Thánh Patrick thì quá nhiều; nhưng khi nhìn đến hai đức tính chắc chắn của ngài: khiêm tốn và dũng cảm thì điều đó có ích lợi cho chúng ta. Chính thái độ cương quyết khi chấp nhận đau khổ cũng như thành công đã hướng dẫn cuộc đời của Thánh Patrick, một khí cụ của Thiên Chúa, để chiến thắng cho Ðức Kitô hầu như tất cả tâm hồn người Ái Nhĩ Lan.
Chi tiết về đời ngài thì không chắc chắn. Về nơi sinh trưởng của Thánh Patrick, có người cho là ở Kilpatrick, Tô Cách Lan, có người nói ở Cumberland, Anh Quốc. Cha mẹ ngài là người Rôma sống ở Anh Quốc với nhiệm vụ cai quản các bán đảo.
Khoảng 14 tuổi, chính ngài và phần lớn các nô lệ cũng như các quần thần của cha ngài bị hải tặc Ái Nhĩ Lan bắt và bán làm nô lệ để chăn cừu. Trong thời gian này, Ái Nhĩ Lan là đất của người Druid và ngoại giáo. Ở đây, ngài học ngôn ngữ và phong tục của dân tộc đang bắt giữ ngài.
Sáu năm sau, Patrick vượt thoát, có lẽ đến nước Pháp, và sau đó trở về Anh đoàn tụ với gia đình. Trong thời gian bị bắt tinh thần ngài thay đổi hoàn toàn. Ngài bắt đầu học làm linh mục, và được chịu chức bởi Thánh Germanus, Ðức Giám Mục của Auxerre.
Sau đó, khi 43 tuổi ngài được tấn phong giám mục. Trong một thị kiến, dường như "mọi trẻ con ở Ái Nhĩ Lan từ trong lòng mẹ vươn cánh tay" đến ngài. Ngài hiểu thị kiến này là một lời mời gọi đi rao giảng Tin Mừng cho người ngoại giáo Ái Nhĩ Lan. Ngài đến phía tây và phía bắc, là nơi chưa bao giờ đức tin được rao giảng ở đây, và ngài đã được sự bảo vệ của các vua chúa trong vùng và đã hoán cải rất nhiều người.
Ngài tấn phong nhiều linh mục, chia quốc gia này thành các giáo phận, tổ chức các công đồng, thành lập vài đan viện và tiếp tục thúc giục dân chúng sống thánh thiện hơn.
Ngài chịu đau khổ vì bị các tăng sĩ ngoại giáo chống đối, và bị chỉ trích cả ở Anh và Ái Nhĩ Lan vì đường lối truyền giáo của ngài.
Trong 40 năm rao giảng và hoán cải, ngài đã làm nhiều phép lạ và đã viết Confessio nói về tình yêu của ngài dành cho Thiên Chúa. Ngài từ trần năm 461 ở Saul, là nơi ngài xây dựng nhà thờ đầu tiên.
Lời Bàn
Ðiểm đặc biệt của Thánh Patrick là sự bền bỉ trong các nỗ lực. Chỉ khi nghĩ đến tình trạng của Ái Nhĩ Lan lúc ngài mới bắt đầu truyền giáo, với phạm vi rộng lớn mà ngài phải lao nhọc và hạt giống đức tin mà ngài đã vun trồng hiện vẫn tiếp tục nẩy nở và phát triển, thì người ta mới thán phục con người của Thánh Patrick. Sự thánh thiện của một con người chỉ có thể nhận biết qua kết quả của họ.
Lời Trích
"Ðức Kitô che chở tôi hôm nay: Ðức Kitô ở với tôi, Ðức Kitô ở trước tôi, Ðức Kitô ở sau tôi, Ðức Kitô ở trong tôi, Ðức Kitô ở dưới tôi, Ðức Kitô ở trên tôi, Ðức Kitô ở bên phải tôi, Ðức Kitô ở bên trái tôi, Ðức Kitô ở với tôi khi nằm nghỉ, Ðức Kitô ở với tôi khi thức dậy, Ðức Kitô ở trong tâm hồn bất cứ ai khi nghĩ đến tôi, Ðức Kitô ở trong mắt những ai khi nhìn thấy tôi, Ðức Kitô ở trong tai những ai khi nghe lời tôi" (trích từ ca vịnh của Thánh Patrick).


Trích từ NguoiTinHuu.com