Thứ Sáu, 5 tháng 10, 2012

THỨ BẢY 6/10/2012 TUẦN XXVI THƯỜNG NIÊN, Ngày 6 Năm mầu nhiệm Vui: Thiên thần truyền tin

Ngày 6
Năm mầu nhiệm Vui:
Thiên thần truyền tin



Thứ nhất thì ngắm, Thiên thần truyền tin cho Đức Bà chịu thai, ta hãy xin cho được ở khiêm nhường.
Tin mừng theo thánh Luca: (1,26-)
Bà Êlisabét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gabriel đến một thành miền Galilê, gọi là Nadarét, gặp một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc nhà Đavít. Trinh nữ ấy tên là Maria.
  Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói: "Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ơn, Chúa ở cùng Ngài". Nghe lời ấy, Maria rất bối rối, tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì. Sứ thần liền nói: "Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa vít, tổ tiên Người. Người sẽ cai trị nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô tận".
  Bà Maria thưa với sứ thần:"Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến đàn ông!"
Sứ thần đáp: "Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. Kìa bà Êlisabét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không có thể".
  Bấy giờ bà Maria nói: "Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói". Rồi sứ thần từ biệt ra đi.


Ơn lạ Mẹ ban:
Cha mẹ cần dạy con đọc kinh kính mừng ngay từ nhỏ.
            Trong sách Các phép lạ số 39 của Cha Radi Dòng Thánh Bênêditô kể chuyện sau:
            Daniel một chàng thanh niên mồ côi cha từ nhỏ,  chàng sống dưới sự chăm sóc của mẹ.   Một ngày kia có vị quan thấy chàng có nhiều khả năng  nên ông nhận chàng vào dinh để ông giúp  đỡ học hành.  Trước khi rời mẹ,  bà chỉ xin con một điều là mỗi ngày con đọc một kinh Kính Mừng và câu: "Lạy Đức Trinh nữ phúc đức, xin thương con trong giờ con chết", để xin Đức Mẹ gìn giữ con trước giờ lìa đời.  Vì thương mẹ,  anh nhận giữ lời hứa.
   Vào dinh quan chàng học hành rất giỏi,  nhưng bởi tính ngang tàng,  kiêu ngạo nên ai cũng ghét.  Sau cùng ông quan cũng không chấp nhận nuôi anh nữa. 
Bất mãn với cuộc sống,  chàng lao đầu vào việc cướp của, giết người,  đứng đầu đảng cướp.  Chàng bị bắt và bị kết án tử hình.  Suốt những tháng trong tù,  chàng thêm uất hận và muốn tự tử.
 Quỉ lợi dụng cơ hội hiện hình thành chàng thanh niên lực lưỡng vào khám đánh nhau với chàng.   Tuy sức lực cao cường nhưng chàng cũng bị thua.  Quỉ liền dụ giúp đỡ nếu chàng chịu quy phục.   Cơ may hiếm có, chàng chấp nhận để được giải thoát khỏi tù.   Quỉ ra nhiều điều kiện kể cả việc bỏ Chúa,  bỏ Giáo Hội,  chàng cũng chấp nhận.  Nhưng đến điều kiện bỏ Đức Mẹ thì chàng nói rằng :"Đây là điều tôi hứa với mẹ tôi không hề bỏ Kinh Kính Mừng,  nên không thể bỏ Đức Mẹ được".   Không thành công,  quỉ liền biến đi để chàng trong dày vò lương tâm vì đã bỏ Chúa.  Quì lên chàng cầu nguyện với Đức Mẹ và lớn tiếng đọc kinh thống hối van xin : "Xin cứu con trong giờ lâm tử".
            Trên đường hành quyết, thấy có tượng Đức Mẹ đứng bên đường,   chàng xin lính canh cho phép chàng vào hôn chân Đức Mẹ trước khi chết.   Được phép,  chàng đến bên chân tượng cúi hôn chân Mẹ.  Lạ lùng thay,  tượng Mẹ cúi xuống đưa tay nắm lầy tay chàng, chặt đến nỗi gỡ ra không được.  Dân chúng thấy biểu hiệu tình thương của Mẹ,  nên hô hoán la lối vang trời xin tha bổng cho chàng.
            Trở về cuộc sống mới,  chàng sống đời thánh thiện và trở nên tông đồ rao giảng tình thương của Mẹ qua lời kinh Kính mừng.


TIN MỪNG HẰNG NGÀY THỨ BẢY 6/10/2012 TUẦN XXVI THƯỜNG NIÊN, "Các con hãy vui mừng vì tên các con đã được ghi trên trời".

Thứ Bảy Tuần XXVI Mùa Thường Niên Năm chẵn


BÀI ĐỌC I: G 42, 1-3. 5-6. 12-16 (Hr 1-3. 5-6. 12-17)
"Giờ đây mắt con nhìn thấy Chúa. Bởi đó chính con trách thân con".
Trích sách ông Gióp.

Ông Gióp thưa lại cùng Chúa rằng: "Con biết Chúa làm nên mọi sự, và không một tư tưởng nào giấu được Chúa. Ai là kẻ mê muội che khuất được ý định của Chúa? Vì thế, con nói bậy về những điều vượt quá sự thông biết của con. Trước kia con nghe tiếng Chúa, còn giờ đây mắt con nhìn thấy Chúa. Bởi đó, chính con trách thân con, và ăn năn sám hối trong bụi tro".

Sau này Chúa giáng phúc cho ông Gióp nhiều hơn lúc ban đầu. Ông có mười bốn ngàn con chiên, sáu ngàn lạc đà, một ngàn đôi bò và một ngàn lừa cái. Ông còn sinh được bảy trai ba gái. Người con gái thứ nhất ông đặt tên là Nhật, người thứ hai tên Hương, và người thứ ba tên Bình. Trong khắp nước, không tìm thấy thiếu nữ nào xinh đẹp như các con gái của ông Gióp. Thân phụ của các cô cũng chia phần gia tài cho các cô như những anh em trai. Sau đó, ông Gióp còn sống được một trăm bốn mươi năm nữa, và nhìn thấy con cháu đến bốn đời. Khi cao niên đầy tuổi, ông đã qua đời. Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 118, 66. 71. 75. 91. 125. 130
Đáp: Lạy Chúa, xin tỏ cho tôi tớ Chúa thấy long nhan hiền hậu (c. 135a).

Xướng: 1) Xin Chúa dạy con sự thông minh và lương tri, vì con tin cậy vào các chỉ thị của Ngài. - Đáp.

2) Con bị khổ nhục, đó là điều tốt, để cho con học biết thánh chỉ của Ngài. - Đáp.

3) Lạy Chúa, con biết sắc dụ Ngài công minh, và Ngài có lý mà bắt con phải khổ. - Đáp.

4) Theo chỉ dụ Chúa mà vũ trụ luôn luôn tồn tại, vì hết thảy vạn vật đều phải phục vụ Ngài. - Đáp.

5) Con là tôi tớ Chúa, xin Chúa dạy dỗ con, để con hiểu biết những lời Ngài nghiêm huấn. - Đáp.

6) Sự mạc khải lời Ngài soi sáng và dạy bảo những người chưa kinh nghiệm. - Đáp.

ALLELUIA: Tv 118, 34
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin giáo huấn con, để con tuân cứ luật pháp của Chúa và để con hết lòng vâng theo luật đó. - Alleluia.



PHÚC ÂM: Lc 10, 17-24
"Các con hãy vui mừng vì tên các con đã được ghi trên trời".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, bảy mươi hai ông trở về vui mừng và nói rằng: "Thưa Thầy, nhân danh Thầy thì cả ma quỷ cũng vâng phục chúng con". Người bảo: "Ta đã thấy Satan từ trời sa xuống như luồng chớp. Này Ta đã ban cho các con quyền giày đạp rắn rết, bọ cạp, mọi quyền phép của kẻ thù, và không có gì có thể làm hại được các con. Dù vậy, các con chớ vui mừng vì các thần phải vâng phục các con; nhưng hãy vui mừng vì tên các con đã được ghi trên trời". Lúc đó, Chúa Giêsu đầy hoan lạc trong Chúa Thánh Thần, Người nói: "Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã giấu không cho những người thông thái khôn ngoan biết những điều này, nhưng đã tỏ cho những kẻ đơn sơ. Vâng, lạy Cha, đó là ý Cha đã muốn thế. - Cha Ta đã trao cho Ta mọi sự. Không ai biết Chúa Con là ai, ngoài Chúa Cha; cũng không ai biết Chúa Cha là Đấng nào, ngoài Chúa Con, và những người được Chúa Con muốn tỏ cho biết". Rồi Chúa Giêsu quay lại phía các môn đệ và phán: "Hạnh phúc cho những con mắt được xem những điều các con xem thấy, vì chưng, Thầy bảo các con: Có nhiều tiên tri và vua chúa đã muốn xem những điều các con thấy, mà chẳng được xem, muốn nghe những điều các con nghe, mà đã chẳng được nghe". Đó là lời Chúa.
Th. Brunô, linh mục
Lc 10,17-24

HẠNH PHÚC BẤT NGỜ

“Nhiều ngôn sứ và nhiều vua chúa muốn thấy điều anh em đang thấy mà không được thấy, muốn nghe điều anh em đang nghe mà không được nghe.” (Lc 10,24)

Suy niệm: Được Chúa Giê-su trao nhiều quyền năng (đạp lên bọ cạp rắn rết mà không hề hấn gì, trừ được quỷ, chữa được bệnh…), các môn đệ dường như ngây ngất vì vinh quang bao quanh các ông, dù đó là hào quang đi mượn. Các ông hớn hở vì đã tung ra được những đòn đích đáng khiến “ma quỷ cũng phải khuất phục.” Vui như thế, các ông đã đặt sai trọng tâm. Vinh quang đích thực của con người không phải là những gì họ làm mà là những gì Thiên Chúa làm cho họ. Hạnh phúc đích thực mà các môn đệ không ngờ tới không phải là làm được những cú ngoạn mục nhưng là được ở với Đức Giê-su, điều mà các ngôn sứ các vua chúa trước đây muốn được mà không được. Và cuối cùng, đó chính là hạnh phúc đời đời, là niềm vui vì “tên của anh em đã được ghi trên trời”.

Mời Bạn: Phải chăng đã hơn một lần bạn, tôi cũng hành xử giống như các môn đệ: vồ vập lấy những ơn Chúa ban mà quên khuấy đi chính Đấng ban ơn? Những lúc làm được điều gì tốt đẹp, bạn đã làm gì: “khoái chí” vì mình được khen ngợi hay bạn làm như Chúa Giêsu, “ngợi khen Chúa Cha là chúa tể trời đất, vì Cha đã mạc khải những điều trọng đại cho những người bé mọn”?

Sống Lời Chúa: Nhớ lại một ơn lành đã được hoặc một việc tốt bạn đã thực hiện và dâng lời tạ ơn Thiên Chúa về điều đó.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, con xin cảm tạ Chúa đã ban cho con biết bao ơn lành. Xin cho con biết dùng ơn Chúa ban để phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân nhiều hơn nữa.



THỨ BẢY 6/10/2012 TUẦN XXVI THƯỜNG NIÊN, Thánh Brunô (1030? - 1101)

Thánh Brunô
(1030? - 1101)

   Thánh nhân được vinh dự là đã sáng lập một tu hội mà như người ta thường nói, không bao giờ phải cải cách vì dòng chưa bao giờ đi lạc đường. Chắc chắn là vị sáng lập cũng như các tu sĩ dòng sẽ từ chối lời khen ngợi này, nhưng đó là một kết quả của tình yêu mãnh liệt mà thánh nhân đã dành cả cuộc đời để hãm mình đền tội trong cô độc.

Ngài sinh ở Cologne, nước Ðức, và là thầy giáo nổi tiếng ở Rheims và được bổ nhiệm làm chưởng ấn của tổng giáo phận khi 45 tuổi. Ngài hỗ trợ Ðức Giáo Hoàng Grêgôriô VII chôáng lại sự suy đồi của hàng giáo sĩ và tiếp tay trong việc cách chức vị tổng giám mục gây nhiều tiếng xấu là Manasses. Dân chúng muốn đưa ngài lên làm tổng giám mục nhưng ngài lại muốn sống ẩn dật.

Ngài là một ẩn tu dưới quyền tu viện trưởng là Thánh Robert Molesmes (sau này sáng lập dòng Xitô), nhưng sau đó, vào năm 1084 cùng với sáu người bạn ngài di chuyển đến Grenoble. Họ được vị giám mục của Grenoble là Thánh Hugh cấp cho một nơi để sinh sống trong một vùng cao nguyên hoang vắng, được gọi là La Grande Chartreuse.

Brunô và các bạn xây một nhà nguyện nhỏ với các phòng riêng cách xa nhau, sống sát với quy luật của Thánh Biển Ðức, và từ đó xuất phát Dòng Carthusian. Trong một ngày họ chỉ gặp nhau để đọc kinh sáng và tối, thời giờ còn lại họ sống trong cô độc, làm việc lao động, cầu nguyện và sao chép lại các văn bản Kinh Thánh. Ngay cả việc ăn uống, họ cũng chỉ ăn chung trong những ngày lễ lớn.

Ðức Giáo Hoàng Urbanô II nghe biết sự thánh thiện của Brunô, đã gọi ngài về Rôma để làm phụ tá trong việc cải cách hàng giáo sĩ. Sau khi khước từ chức tổng giám mục mà đức giáo hoàng ban cho, Bruno đã xin Ðức Urbanô cho phép ngài trở về đời sống ẩn dật, thành lập cộng đồng Thánh Maria ở La Torre trong vùng Calabria, và ngài sống ở đây cho đến khi lìa đời, ngày 6-10-1101.

Ngài chưa bao giờ được chính thánh phong thánh vì quy luật dòng Carthusian không chấp nhận những vinh dự công cộng, nhưng vào năm 1514, Ðức Giáo Hoàng Leo X đã cho phép dòng Carthusian mừng lễ kính ngài, và tên của ngài được xếp trong niên lịch Công Giáo Rôma từ năm 1623.

Lời Bàn

Nếu đời sống chiêm niệm là một lối sống không dễ thực hiện, thì chắc chắn sự hãm mình đền tội được thể hiện qua cuộc đời ẩn dật của các tu sĩ Carthusian lại càng khó khăn biết chừng nào.

Lời Trích

"Thành viên của các cộng đồng tận hiến cho sự chiêm niệm đã hy sinh chính mình cho Thiên Chúa trong sự cô độc và thinh lặng, liên lỉ cầu nguyện và hãm mình đền tội. Bất kể những nhu cầu của giáo hội có khẩn cấp đến đâu, những cộng đồng như thế luôn luôn góp phần độc đáo trong Nhiệm Thể Ðức Kitô..."(Sắc Lệnh về Canh Tân Ðời Sống Tu Trì, 7).


Trích từ NguoiTinHuu.com

GX TÂN VIỆT MỪNG BỔN MẠNG THÁNH NỮ TÊRÊSA HÀI ĐỒNG GIÊSU

VỀ TRỜI TÔI SẼ LÀM MƯA HOA HỒNG






     Hôm nay 1/10/2012 Giáo Hội đặc biệt mừng kính Thánh Nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu trinh nữ, tiến sĩ Hội Thánh. Bổn mạng các xứ đạo truyền giáo và đây cũng là dịp hàng năm giáo xứ Tân Việt mừng lễ bổn mạng  kính Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu.
     Thánh lễ được cử hành lúc 17h30 , nhưng mới 16h30 mọi người và các đoàn thể trong xứ đã có mặt đầy đủ trong trang phục của từng đoàn, để chuẩn bị cuộc rước, thánh lễ, thật nghiêm trang và sốt sáng.
      Trước thánh lễ cộng đoàn được nghe qua tiểu sử của Thánh Nữ Têrêsa. Sau đó đại diện các đoàn thể cùng ba Cha đồng tế rước Thánh Giá nến từ cuối sảnh nhà thờ lên cung Thánh.
      Cha chủ sự thánh lễ đồng tế Cha Đaminh Vũ Ngọc Thủ chánh xứ, Cha phụ tá Giuse Đỗ Đức Hạnh, Cha Guise Nguyễn Thanh Đề Dòng Phanxicô. Lời đầu tiên Cha chánh xứ có đôi lời cảm ơn Cha Guise Dòng Phanxicô đã đến hiệp dâng thánh lễ, và cha cũng chúc mùng bổn mạng các dì, sơ Dòng Mến Thánh Giá, đoàn Têrêsa Hài Đồng Giêsu của các em thiếu nhi, bổn mạng của Dòng Phan Sinh tại thế, các bà ,các chị .. mang tên Thánh Nữ.
     Trong bài tin mừng hôm nay. Chúa nói:             “Thầy bảo thật anh em : Nếu anh em không trở lại mà nên như trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng vào nước Trời.”
                                                        (Mt 18. 3)
     Qua bài tin mừng hôm nay, Cha chia sẻ với mọi người: Hãy sống theo tinh thần “Tự hạ” theo gương Chúa Giêsu. Vì Chúa là Thiên Chúa đã “Tự hạ” xuống trần gian để làm Người, mà còn làm Người rốt hết và đã vâng lời cho đến chết.
     Cha chia sẻ tiếp: Thánh nữ Têrêsa từ khi bước vào Dòng kín, điều mong muốn của chị là: Được ”Nên Thánh” để cầu nguyện cho các linh hồn được cứu rỗi, cầu nguyện cho các Linh Mục các nhà truyền giáo. Với tinh thần đơn sơ, nhỏ bé Thánh Nữ còn sống với tinh thần”khiêm hạ” và “phó thác“ vì thế có lần Thánh Nữ đã ví rằng “Cuộc đời con như một trái banh, Chúa muốn chơi cũng được, muốn ném vào só sỉnh nào cũng được, Chúa muốn đá vào tường cũng được” chỉ vì muốn làm vui lòng Chúa.  Thánh Nữ còn nói rằng : Cuộc đời tôi như một bông  hoa nhỏ bé nở ở một góc tường nào đó, mà làm vui lòng Chúa, thì Chúa vẫn cúi xuống nâng lên. Qua đó Cha cũng mời gọi mọi người sống theo tinh thần đơn sơ, khiêm hạ, phó thác như Thánh Nữ Têrêsa và hãy biến đổi cuộc đời mình thành những bông hoa đẹp lòng Chúa để rồi Chúa sẽ cúi xuống và nâng lên.
        Tiếp tục thánh lễ đại diên các đoàn thể dâng lời nguyện giáo dân và tiến dâng của lễ lên trước tôn nhan Chúa.
        Kết thúc thánh lễ một lần nữa Cha chánh xứ chúc mừng bổn mạng tất cả những ai mang tên Thánh Têrêsa.
       Ngoài sân nhà thờ vẫn còn những hạt mưa nhỏ, mọi người ra về lòng tràn ngập niềm vui, những gương mặt tươi cười như những nụ hoa nở. Vì đó là những hạt mưa hoa hồng của Thánh Nữ, những cánh hồng tình thương mà Thánh Nữ hứa ban.

       Thanh Tam. Tân Việt ngày 2 tháng 10 năm 2012

Thứ Năm, 4 tháng 10, 2012

THỨ SÁU 5/10/2012 TUẦN XXVI THƯỜNG NIÊN, Ngày 5 Đức Mẹ Fatima khuyên dạy đọc kinh Mân côi

Ngày 5
Đức Mẹ Fatima khuyên dạy đọc kinh Mân côi



Đầu thế kỉ 20, vào năm 1917, khi hiện ra tại Fatima với 3 em Luxia, Giaxinta và Phanxicô Đức Mẹ khuyên đọc kinh Mân côi và xưng mình là Đức Mẹ Mân côi:
            1. Các con hãy lần hạt Mân côi hàng ngày để xin ơn hoà bình cho thế giới.   Trái Tim Mẹ là nơi con nương ẩn và là đường đưa con tới Chúa.  (ngày 13.5.1917)
2. Hãy lần hạt Mân côi hàng ngày để tôn kính Đức Mẹ, xin ơn hoà bình cho thế giới, vì chỉ có mình Đức Mẹ xin được ơn này. (ngày 13.7.1917)
3. Khi đọc kinh Mân côi, sau mỗi chục, các con hãy đọc: “Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội lỗi chúng con..”.(ngày 13.7.1917)
4. Hãy cầu nguyện, cầu nguyện rất nhiều (bằng kinh Mân côi?) và hy sinh cho tội nhân. Nhiều linh hồn sa hỏa ngục vì không ai cầu nguyện và hy sinh cho họ. (ngày 13.8.1917)
5. Hãy tiếp tục đọc kinh Mân côi để cầu cho chiến tranh chóng chấm dứt. (ngày 13.9.1917)
6. “Ta là Đức Mẹ Mân côi”, hãy lần hạt hàng ngày. (ngày 13.10.1917)
7. Ngày 10 tháng 12 năm 1925, khi hiện ra với Chị dòng Luxia, Mẹ hứa ban mọi ơn cần để rỗi linh hồn cho những ai xưng tội, Rước lễ, và đọc 5 chục kinh Mân côi với Mẹ, trong 5 thứ Bảy đầu tháng liên tiếp, có ý “đền tạ Trái Tim Mẹ”.

Truyện chứng:
Ngày 13 tháng 10 kỷ niệm Đức Mẹ hiện ra lần thứ 6:
           
            Đây là lần hiện ra có đông đảo dân chúng chứng kiến nhất.  Mặc dù thời tiết xấu ngay từ ngày 12,  cũng có trên 10 ngàn người từ khắp nước Bồ đổ về để chờ đợi phép lạ Đức Mẹ hứa trong lần hiện ra này.  Người lo lắng nhất chính là mẹ của Lucia.  Bà khuyên con gái đi xưng tội trước để khi không có phép  lạ  xẩy ra người ta sẽ giết con.  Lucia trả lời :"Con sẽ đi xưng tội,  nhưng không phải vì phép lạ không xẩy ra... Đức Mẹ sẽ giữ lời hứa".
           Sáng sớm ngày 13 người ta thấy đám đông đứng phủ  ngọn đồi Cova Da Iria,  nơi Đức Mẹ hứa sẽ hiện đến.  Dưới cơn mưa lất phất của những ngày đầu thu,  ai cũng cảm thấy lạnh cóng,  nhưng đều hợp ý với nhau trong lời kinh Mân Côi dâng kính Mẹ.   Mọi người đều chăm chú hướng nhìn về phía ba trẻ trong y phục  bê bết những bùn.
            Lucia bắt đầu đọc kinh Mân Côi.  Bỗng cô hô lớn :"Xin mọi người hãy xếp dù lại".  Với hai em Phanxicô và Giacinta, cô cũng ra lệnh :"Hai em cũng qùi xuống vì Đức Mẹ đang đến".
            Cùng với ba em,  nhiều người đã thấy vệt sáng trên bầu trời.  Trong một cái nhìn vừa cảm thông và u buồn,  Đức Mẹ nói với ba em :"Ta là Đức Mẹ Mân Côi.... Ta muốn người ta xây một nhà nguyện ở nơi đây để kính nhớ Ta,  các con hãy tiếp tục lần hạt mỗi ngày".  Và Đức Mẹ cũng hứa nhận lời cầu của một số người mà Lucia đã đại diện trình lên Mẹ.   Nhưng Mẹ cảnh cáo :"Đừng xúc phạm đến Chúa nữa,  người ta đã xúc phạm quá nhiều rồi".   Nói xong những điều đó,   Đức Mẹ chỉ tay về hướng mặt trời.... Trong cơn ngây ngất,  Lucia đã thốt lên: "Xin mọi người hãy nhìn mặt trời".
            Lạ lùng thay,  ai cũng có thể nhìn thẳng về phía mặt trời mà không bị lóa mắt.  Như một bánh xe cuồn cuộn lửa đỏ,  mặt trời quay lượn và tung ra những tia sáng muôn màu,  rồi thình lình từ trên cao mặt trời bỗng rơi xuống.  Trong một cơn sốt hoảng,  mọi người cảm thấy như mặt bầu trời sắp sập,  ai ai cũng nằm rạp xuống trên bãi cỏ và đấm ngực ăn năn như để chờ đợi giây phút cuối cùng của vũ trụ.... Hiện tượng mặt trời nhảy múa và sa xuống mặt đất kéo dài trong hai phút.   Khi mặt trời trở lại trạng thái bình thường,  mọi người đều nhận thấy rằng bãi cỏ ướt đẫm trong cơm mưa bỗng trở nên khô ráo.
            Chính phủ Bồ đào Nha muốn đánh đổ những thứ mà họ coi như huyền thoại tôn giáo và lòng mê tín,  thì ngày 13 tháng 10 một phép lạ xẩy ra ngoài sự tưởng tượng của họ đã đánh đổ hết mọi hoài nghi của mọi người.  Phép lạ mặt trời múa vừa là một thể hiện của quyền năng Thiên Chúa vừa là một lời mời gọi sám hối.   Đệ nhất thế chiến đã phát sinh ra nhiều làn sóng vô thần chủ trương tiêu diệt tôn giáo và những chế độ độc tài chối bỏ quyền sống của con người,  khiến nhiều người cũng buông thả trong đời sống luân lý.   Thế giới có thể cứu vãn được nếu con người biết thống hối ăn năn và cải thiện.  Đó là sứ điệp Mẹ Fatima lập lại.  Để giúp phương tiện cho người ta hoán cải là việc cầu nguyện,  cầu nguyện bằng kinh Mân côi để quay về với Chúa và để thương yêu đồng loại.   Quyền sống của con người đang bị chối bỏ và chà đạp trong những sa đọa về luân lý.  Đức Mẹ tha thiết kêu mời chúng ta hãy ăn năn cải thiện,  lần hạt Mân côi, và tôn sùng Trái Tim Mẹ để nhiều linh hồn được cứu rỗi, thế giới được hòa bình.

TIN MỪNG HẰNG NGÀY THỨ SÁU 5/10/2012 TUẦN XXVI THƯỜNG NIÊN, "Ai tiếp đón Thầy, là tiếp đón Đấng đã sai Thầy".

Thứ Sáu Tuần XXVI Mùa Thường Niên Năm chẵn


BÀI ĐỌC I: G 38, 1. 12-21; 39, 33-35 (Hr 38, 1. 12-21; 40, 3-5)
"Ngươi có xuống tận đáy biển và đi bách bộ dưới vực thẳm không?"
Trích sách ông Gióp.

Từ cơn gió lốc, Chúa đáp lời ông Gióp rằng: "Sau khi ngươi đã sinh ra, ngươi có ra lệnh cho bình minh, và chỉ chỗ cho rạng đông không? Ngươi có cầm giữ các phần cuối cùng trái đất, và xua đuổi khỏi địa cầu bọn gian ác không? Mặt đất trở nên như đất sét có đóng ấn và trải ra như chiếc áo. Bọn gian ác bị tước mất sự sáng, và cánh tay giơ cao bị bẻ gẫy.

"Ngươi có xuống tận đáy biển, và đi bách bộ dưới vực thẳm không? Cửa tử thần có mở ra cho ngươi và ngươi có nhìn thấy tối tăm không? Ngươi có xem xét chiều rộng địa cầu không? Nếu ngươi đã hiểu biết, hãy chỉ mọi sự cho Ta. Sự sáng ở đàng nào và sự tối tăm ở nơi đâu, để ngươi dẫn dắt cả hai đến địa giới của chúng, và hiểu biết đường lối nhà chúng? Bấy giờ ngươi có biết ngươi sẽ sinh ra không? Và ngươi có biết rõ số ngày đời ngươi không?"

Ông Gióp thưa lại cùng Chúa rằng: "Con nói lơ đãng, thì con trả lời thế nào được? Con để tay trên miệng con. Con đã nói một lần, chớ chi con đừng nói! Và lần thứ hai, con không nói thêm gì nữa". Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 138, 1-3. 7-8. 9-10. 13-14ab
Đáp: Lạy Chúa, xin hướng dẫn con trong đường lối đời đời (c. 24b).

Xướng: 1) Lạy Chúa, Ngài thăm dò và biết rõ con, Ngài biết con, lúc con ngồi, khi con đứng. Ngài hiểu thấu tư tưởng con tự đàng xa, khi con bước đi hay nằm nghỉ, Ngài thấy hết, Ngài để ý tới mọi đường lối của con. - Đáp.

2) Con đi đâu để xa khuất được thần linh của Chúa? Con trốn đâu cho khỏi thiên nhan Ngài? Nếu con leo được lên trời, thì cũng có Ngài ngự đó; nếu con nằm dưới âm phủ, thì đây cũng có mặt Ngài. - Đáp.

3) Nếu con mượn đôi cánh của hồng đông, và bay đến cư ngụ nơi biên cương biển cả, tại nơi đây cũng bàn tay Chúa dẫn dắt con, và tay hữu Ngài nắm giữ con. - Đáp.

4) Chính Ngài đã nặn ra thận tạng con, đã dệt ra con trong lòng thân mẫu. Con ngợi khen Ngài đã tạo nên con lạ lùng như thế, vì công cuộc của Ngài thật diệu huyền. - Đáp.

ALLELUIA: Tv 129, 5
Alleluia, alleluia! - Con hy vọng rất nhiều vào Chúa, linh hồn con trông cậy ở lời Chúa. - Alleluia.



PHÚC ÂM: Lc 10, 13-16
"Ai tiếp đón Thầy, là tiếp đón Đấng đã sai Thầy".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Khốn cho ngươi, hỡi Corozain, khốn cho ngươi, hỡi Bethsaiđa: vì nếu tại Tyrô và Siđon đã xảy ra những phép lạ thực hiện nơi các ngươi, thì từ lâu, những nơi đó đã mặc áo vải thô và ngồi trên tro bụi mà sám hối. Cho nên trong ngày thẩm phán, Tyrô và Siđon sẽ được nhiêu dung hơn các ngươi.

"Còn ngươi nữa, hỡi Capharnaum, phải chăng ngươi sẽ được nâng cao đến tận trời? Ngươi sẽ phải hạ thấp xuống tới địa ngục.

"Ai nghe các con, tức là nghe Thầy, và ai khinh dể các con, là khinh dể Thầy. Mà ai khinh dể Thầy là khinh dể Đấng đã sai Thầy". Đó là lời Chúa.

Lc 10,13-16

NHẬN BIẾT ƠN CHÚA BAN ĐỂ HOÁN CẢI

“Khốn cho ngươi, hỡi Khôradin! Khốn cho ngươi, hỡi Bétxaiđa!” (Lc 10,13)

Suy niệm: Cũng như Caphácnaum nằm ven bờ bắc của Biển Hồ Tibêria, vốn được gọi là “nhà của Chúa Giêsu” (Mc 2,1; 9,33), Khôradin cách đó khoảng 3 cây số về phía bắc cũng là nơi Chúa thường lui tới trong hành trình rao giảng. Bétxaiđa, cách Caphácnaum 3 cây số về phía đông, cũng không phải là nơi xa lạ vì là quê quán của các tông đồ Phêrô, Anrê và Philípphê (x. Ga 1,44). Cả ba nơi này đã nghe nhiều lời Chúa giảng dạy, đã chứng kiến nhiều phép lạ Chúa làm. Thế nhưng Ngài đã phải thốt lên lời than trách“Khốn cho ngươi” đầy thương xót pha lẫn giận dữ và cảnh báo nghiêm khắc, chỉ vì thái độ vênh vang trước những ơn đặc biệt đó trong khi vẫn cứng lòng chai đá mà không hối cải, là điều kiện tối cần để được cứu độ.

Mời Bạn: Nếu hôm nay Chúa Giêsu đến nói với bạn những lời như trên thì thử hỏi bạn sẽ có thái độ nào đây? Chúng ta đã nhiều lần được nghe Lời Chúa, đã được biết về Chúa, được lãnh nhận hồng ân tái sinh, nhưng chúng ta đã khước từ Chúa qua cách sống thiếu niềm tin trong cuộc sống hàng ngày, qua thái độ dửng dưng lạnh nhạt với lời mời gọi hoán cải. Như vậy chúng ta đâu khác gì những dân thành Bétxaiđa hay thành Khôradin ngày xưa!

Sống Lời Chúa: Nhớ lại những ơn lành Chúa đã ban cho mình và quyết tâm chừa bỏ một nết xấu.

Cầu nguyện: Lạy Thiên Chúa tối cao và vinh hiển, xin chiếu sáng chỗ tối tăm trong lòng con và ban cho con một đức tin chân thật, một đức cậy vững vàng và một đức mến hoàn hảo… để con chu toàn thánh ý Chúa trong mọi việc con làm. Amen. (Th. Phanxicô Átxidi)



THỨ SÁU 5/10/2012 TUÀN XXVI THƯỜNG NIÊN, Chân Phước Marie-Rose Durocher (1811-1849)

Chân Phước Marie-Rose Durocher
(1811-1849)

   Trong khoảng thời gian tám năm đầu của cuộc đời Chân Phước Marie-Rose Durocher, Gia Nã Ðại chỉ có một giáo phận trải rộng từ đông sang tây. Số dân Công Giáo lúc đó là nửa triệu và được thừa hưởng tự do tôn giáo cũng như quyền công dân từ Anh Quốc mới 44 năm trước đó. Khi Marie-Rose được 29 tuổi, Ðức Giám Mục Ignace Bourget làm Giám Mục Montréal. Ngài là người có ảnh hưởng đến cuộc đời của chân phước Marie-Rose.

 Ðức giám mục phải đối phó với vấn đề thiếu linh mục và nữ tu, phần lớn số dân quê không có học vấn. Cũng như các giám mục ở Hoa Kỳ, ngài sục sạo khắp Âu Châu để tìm sự giúp đỡ và chính ngài thành lập bốn tu hội, một trong những tu hội ấy là các Nữ Tu của Danh Thánh Giêsu và Maria. Nữ tu đầu tiên và cũng là vị sáng lập là Marie-Rose.

Marie-Rose sinh năm 1811 tại một ngôi làng nhỏ bé gần Montréal, và là người con thứ 10 trong gia đình 11 người con. Ngài được giáo dục kỹ lưỡng, và tinh nghịch như con trai, biết cưỡi ngựa và cũng có thể dễ dàng lập gia đình. Khi lên 16 tuổi, ngài cảm thấy muốn đi tu nhưng buộc phải từ bỏ ý định này vì thể chất yếu ớt. Lúc 18 tuổi, mẹ ngài từ trần, người anh linh mục của ngài mời người cha và em mình đến sống trong giáo xứ của linh mục ở Beloeil, không xa Montréal là bao. Trong 13 năm, Marie-Rose phục vụ như một người quản gia, người chủ nhà và là nhân viên của giáo xứ. Ngài nổi tiếng vì sự tử tế, hay giúp đỡ, tế nhị và giỏi lãnh đạo; quả thật, ngài được gọi là "vị thánh của Beloeil."

Khi còn trẻ, Marie-Rose thường hy vọng là một ngày nào đó sẽ có tu hội của các sơ chuyên lo việc giáo dục trong mỗi giáo xứ, không ngờ chính ngài lại thành lập một cộng đồng như vậy. Cha linh hướng của ngài, Cha Pierre Telmon, O.M.I, sau khi tỉ mỉ (và khắt khe) hướng dẫn tinh thần của ngài, đã khuyên ngài thành lập một tu hội. Ðức Giám Mục Bourget tán thành, nhưng sơ Marie-Rose chùn bước trước viễn ảnh đó. Chưa một phụ nữ Gia Nã Ðại nào dám làm điều như vậy. Ngài thì yếu ớt, trong khi cha và anh ngài đang cần đến sự giúp đỡ của ngài.

Sau cùng ngài đồng ý, và với hai người bạn, Melodie Dufresne và Henriette Cere, di chuyển đến một căn nhà nhỏ ở Longueuil, đối diện với Montréal qua con sông St. Lawrence. Cùng với họ là 13 thiếu nữ đã sẵn sàng vào nội trú. Từ từ, tu hội phát triển đến Bethlehem, Nazareth và Gethsemane. Lúc ấy Marie-Rose 32 tuổi và chỉ còn sống thêm có sáu năm nữa -- đó là những năm ngập tràn thử thách, khó khăn, đau yếu và nhiều điều vu cáo. Những đức tính mà ngài ấp ủ trong thời gian "ẩn dật" đã lộ ra -- một ý chí mạnh mẽ, thông minh và có lương tri. Từ đó, phát sinh một tu hội có tầm vóc quốc tế gồm các nữ tu tận hiến cho việc giáo dục đức tin.

Ngài khắt khe với chính bản thân và cũng thật nghiêm khắc đối với các sơ trong dòng nếu dựa theo tiêu chuẩn ngày nay. Bên trong tất cả những điều ấy, dĩ nhiên, là điều phổ thông đối với các thánh: một tình yêu không lay chuyển dành cho Ðức Kitô trên thập giá.
Vào lúc lâm chung, lời cầu nguyện mà người ta thường nghe ngài thầm thĩ là "Giêsu, Maria, Giuse! Lạy Chúa Giêsu nhân lành, con yêu Chúa. Xin Chúa ở với con!" Trước khi chết, ngài mỉm cười và nói với các nữ tu, "Lời cầu xin của các chị đã giữ tôi ở đây - hãy để tôi đi."

Lời Bàn
Ba đặc tính Kitô Giáo luôn luôn đi với nhau là cầu nguyện, hãm mình và bác ái. Trong thời đại ngày nay, chúng ta thấy có những người nỗ lực sống bác ái, thực sự lưu tâm đến người nghèo. Biết bao Kitô Hữu đã cảm nghiệm được một hình thức cầu nguyện chân thành. Nhưng còn hãm mình thì sao? Chúng ta bối rối khi nghe thấy những hình thức hãm mình ghê gớm của các thánh, như Marie-Rose. Dĩ nhiên, không phải ai ai cũng được như vậy. Nhưng hấp lực của một nền văn hóa vật chất dẫn đến việc hưởng thụ và tiêu khiển thì không thể nào cưỡng chống được nếu không có một hình thức nào đó của sự chủ tâm và tiết chế vì Ðức Kitô. Ðó là một tiến trình trong việc đáp lời mời gọi của Ðức Kitô để sám hối và thực sự quay về với Thiên Chúa.

Lời Trích
Ðối với các nữ tu rời bỏ đời sống tu trì, chân phước Marie-Rose viết: "Ðừng bắt chước những người, mà sau khi một vài tháng sống trong nhà dòng, họ ăn mặc thật khác biệt, nhiều khi lố bịch. Các bạn trở về với tình trạng thế tục. Lời khuyên của tôi là, hãy sống như những ngày ở trong dòng, dù có ở xa đi nữa."


Trích từ NguoiTinHuu.com