Cố gắng chu toàn những gì được coi là thánh ý
Thiên Chúa, đó là cuộc đời của Thánh Gioan La San. Năm 1950, Ðức Giáo Hoàng Piô
XII đặt ngài làm quan thầy của các bậc mô phạm vì nỗ lực của ngài trong việc
giáo dục.
Là một người trẻ của thế kỷ 17, Gioan có tất
cả mọi sự: năng khiếu học thuật, đẹp trai, gia đình quyền quý giầu có và được
giáo dục tử tế. Nhưng khi mới 11 tuổi, ngài xuống tóc đi tu làm linh mục, và
sau đó được chịu chức vào năm 27 tuổi. Dường như một cuộc đời dễ dàng với phẩm
trật cao trọng trong Giáo Hội đang sẵn sàng chờ đón ngài.
Nhưng Thiên Chúa đã có những chương trình
khác cho Cha Gioan, mà dần dà mới được tỏ lộ trong những năm sau đó. Trong một
cơ hội gặp gỡ ông Nyel ở Raven, ngài cảm thấy muốn thiết lập một trường học
dành cho các em trai nhà nghèo ở Raven, là nơi ngài đang sinh sống. Mặc dù công
việc lúc đầu thật ghê tởm đối với ngài, nhưng sau đó, càng ngày ngài càng say
mê hoạt động cho các thiếu niên nghèo túng.
Tin rằng đây là sứ vụ mà Thiên Chúa đã trao
phó, Cha Gioan hết lòng lao mình vào công việc, bỏ nhà, bỏ gia đình, bỏ cả chức
vụ kinh sĩ ở Rheims, bán hết tài sản để trở nên giống như các người nghèo mà
ngài đã tận hiến cuộc đời để phục vụ họ.
Cuộc đời còn lại của Cha Gioan là sống sát
với tu hội mà ngài đã thành lập, Các Thầy Trường Công Giáo (Sư Huynh La San).
Tu hội này phát triển mau chóng và thành công trong việc giáo dục các nam thiếu
niên của gia đình nghèo với phương pháp sư phạm mà Cha Gioan đề ra, đó là sự dạy
dỗ cả lớp thay vì chỉ bảo cá nhân, và dùng tiếng bản xứ thay vì tiếng Latinh.
Ðồng thời tu hội cũng còn mở trường huấn luyện các giáo chức và thiết lập
trường nội trú cho các thiếu niên ngỗ nghịch của các gia đình giầu có. Yếu tố
năng động đằng sau các nỗ lực này là mong muốn các thiếu niên trở nên một Kitô
Hữu tốt lành.
Mặc dù rất thành công, Cha Gioan cũng không
thoát khỏi những thử thách, đó là sự đau lòng khi các sư huynh bỏ dòng, sự
chống đối cay đắng từ các hiệu trưởng ngoài đời khi họ bực bội với phương pháp
giáo dục mới và hữu hiệu của ngài, cũng như thường xuyên bị phe Jansen (*) thời
ấy chống đối mà Cha Gioan kịch liệt phản đối lý thuyết của phe này trong suốt
cuộc đời.
Trong những năm cuối đời, vì bị bệnh suyễn và
thấp khớp, ngài từ trần vào ngày thứ Sáu Tuần Thánh khi được 68 tuổi, và được
Ðức Giáo Hoàng Lêô XIII phong thánh năm 1900.
Lời Bàn
Thật hiếm có ai hoàn toàn tận hiến cho ơn gọi
của Thiên Chúa, bất kể ơn gọi đó là gì. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta "hãy
yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, và hết sức lực của
mình" (Mc 12:30b). Thánh Phaolô cũng có lời khuyên tương tự: "Bất cứ
những gì anh chị em làm, hãy làm hết lòng..." (Colossians 3:23).
Lời Trích
"Còn gì cao quý hơn là uốn nắn tính tình
của các người trẻ? Tôi tin rằng người biết uốn nắn tâm tính của giới trẻ thì
cao trọng hơn mọi họa sĩ, điêu khắc gia và tất cả những người giống như
vậy" (Thánh Gioan Chrysostom).
* Jansen xuất phát từ học thuyết của
Cornelius Jansen (1585 - 1638), giám mục của Ypres. Trong cuốn Augustinus,
Jansen đề xướng nền thần học dựa trên học thuyết của Augustine về định mệnh.
Thần học này khẳng định rằng loài người hoàn toàn hư hỏng vì tội nguyên tổ và
theo bản năng, loài người thích làm sự dữ hơn sự lành. Bởi bản tính suy đồi,
loài người không thể làm gì khác để đáng được ơn cứu độ. Sự cứu chuộc là do ơn
của Chúa mà Ngài chỉ ban cho những ai được chọn. Phần đông nhân loại là bị án
phạt đời đời.
Sau khi xuất bản được hai năm, cuốn
Augustinus đã bị GiáoHội Công Giáo lên án và cấm phát hành bởi Ðức Giáo Hoàng
Urbanô VIII.
Bài đọc: Gen
1:1-2:2; Exo 14:15-15:1; Isa 54:5-14; Isa 55:1-11; Eze 36:16-28; Rom 6:3-11; Mk
16:1-8.
1/ Bài đọc I:
1 Lúc khởi đầu,
Thiên Chúa sáng tạo trời đất. 2 Đất còn trống rỗng, chưa
có hình dạng, bóng tối bao trùm vực thẳm, và thần khí Thiên Chúa bay lượn trên
mặt nước.
3 Thiên Chúa phán:
"Phải có ánh sáng." Liền có ánh sáng.
4 Thiên Chúa thấy
rằng ánh sáng tốt đẹp. Thiên Chúa phân rẽ ánh sáng và bóng tối.
5 Thiên Chúa gọi ánh
sáng là "ngày", bóng tối là "đêm". Qua một buổi chiều và
một buổi sáng: đó là ngày thứ nhất.
6 Thiên Chúa phán:
"Phải có một cái vòm ở giữa khối nước, để phân rẽ nước với nước."
7 Thiên Chúa làm ra
cái vòm đó và phân rẽ nước phía dưới vòm với nước phía trên. Liền có như vậy. 8 Thiên
Chúa gọi vòm đó là "trời". Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là
ngày thứ hai.
9 Thiên Chúa phán:
"Nước phía dưới trời phải tụ lại một nơi, để chỗ cạn lộ ra." Liền có
như vậy.
10 Thiên Chúa gọi chỗ
cạn là "đất", khối nước tụ lại là "biển". Thiên Chúa thấy
thế là tốt đẹp.
11 Thiên Chúa phán:
"Đất phải sinh thảo mộc xanh tươi, cỏ mang hạt giống, và cây trên mặt đất
có trái, ra trái tuỳ theo loại, trong có hạt giống." Liền có như vậy.
12 Đất trổ sinh thảo
mộc, cỏ mang hạt giống tuỳ theo loại, và cây ra trái, trong trái có hạt giống
tuỳ theo loại. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp.
13 Qua một buổi chiều
và một buổi sáng: đó là ngày thứ ba.
14 Thiên Chúa phán:
"Phải có những vầng sáng trên vòm trời, để phân rẽ ngày với đêm, để làm
dấu chỉ xác định các đại lễ, ngày và năm.
15 Đó sẽ là những
vầng sáng trên vòm trời để chiếu soi mặt đất." Liền có như vậy.
16 Thiên Chúa làm ra
hai vầng sáng lớn: vầng sáng lớn hơn để điều khiển ngày, vầng sáng nhỏ hơn để
điều khiển đêm; Người cũng làm ra các ngôi sao.
17 Thiên Chúa đặt các
vầng sáng trên vòm trời để chiếu soi mặt đất,
18 để điều khiển ngày
và đêm, và để phân rẽ ánh sáng với bóng tối. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp.
19 Qua một buổi chiều
và một buổi sáng: đó là ngày thứ tư.
20 Thiên Chúa phán:
"Nước phải sinh ra đầy dẫy những sinh vật lúc nhúc, và loài chim phải bay
lượn trên mặt đất, dưới vòm trời."
21 Thiên Chúa sáng
tạo các thủy quái khổng lồ, cùng mọi sinh vật vẫy vùng lúc nhúc dưới nước tuỳ
theo loại, và mọi giống chim bay tuỳ theo loại. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp.
22 Thiên Chúa chúc
phúc cho chúng rằng: "Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy biển; và
chim phải sinh sản cho nhiều trên mặt đất."
23 Qua một buổi chiều
và một buổi sáng: đó là ngày thứ năm.
24 Thiên Chúa phán:
"Đất phải sinh ra các sinh vật tuỳ theo loại: gia súc, loài bò sát và dã
thú tuỳ theo loại." Liền có như vậy.
25 Thiên Chúa làm ra
dã thú tuỳ theo loại, gia súc tuỳ theo loại và loài bò sát dưới đất tuỳ theo
loại. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp.
26 Thiên Chúa phán:
"Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta,
để con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và
mọi giống vật bò dưới đất."
27 Thiên Chúa sáng
tạo con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh
Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ.
28 Thiên Chúa ban
phúc lành cho họ, và Thiên Chúa phán với họ: "Hãy sinh sôi nảy nở thật
nhiều, cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất. Hãy làm bá chủ cá biển, chim
trời, và mọi giống vật bò trên mặt đất."
29 Thiên Chúa phán:
"Đây Ta ban cho các ngươi mọi thứ cỏ mang hạt giống trên khắp mặt đất, và
mọi thứ cây có trái mang hạt giống, để làm lương thực cho các ngươi. 30 Còn
đối với mọi dã thú, chim trời và mọi vật bò dưới đất mà có sinh khí, thì Ta ban
cho chúng mọi thứ cỏ xanh tươi để làm lương thực. Liền có như vậy."
31 Thiên Chúa thấy
mọi sự Người đã làm ra quả là rất tốt đẹp! Qua một buổi chiều và một buổi sáng:
đó là ngày thứ sáu.
1 Thế là trời đất
cùng với mọi thành phần đã hoàn tất. 2 Ngày thứ bảy, Thiên
Chúa đã hoàn thành công việc Người làm. Khi làm xong mọi công việc của Người,
ngày thứ bảy, Thiên Chúa nghỉ ngơi.
2/ Bài đọc II:
15 Đức Chúa phán với
ông Moses: "Có gì mà phải kêu cứu Ta? Hãy bảo con cái Israel cứ nhổ trại. 16 Phần
ngươi, cầm gậy lên, giơ tay trên mặt biển, rẽ nước ra cho có lối đi khô ráo
ngay giữa lòng biển, để con cái Israel đi vào. 17 Còn Ta,
Ta sẽ làm cho lòng người Ai-cập ra chai đá. Chúng sẽ tiến vào theo sau các
ngươi. Bấy giờ Ta sẽ được vẻ vang hiển hách khi đánh bại Pharao cùng toàn thể
quân lực, chiến xa và kỵ binh của vua ấy. 18 Người Ai-cập
sẽ biết rằng chính Ta là Đức Chúa, khi Ta được vẻ vang hiển hách vì đã đánh bại
Pharao cùng chiến xa và kỵ binh của vua ấy."
19 Thiên sứ của Thiên
Chúa đang đi trước hàng ngũ Israel, lại rời chỗ mà xuống đi đàng sau họ. Cột
mây bỏ phía trước mà đứng về phía sau, 20 chen vào giữa
hàng ngũ Ai-cập và hàng ngũ Israel. Bên kia, mây toả mịt mù, bên này, mây lại
sáng soi đêm tối, khiến cho hai bên suốt đêm không xáp lại gần nhau được.
21 Ông Moses giơ tay
trên mặt biển, Đức Chúa cho một cơn gió đông thổi mạnh suốt đêm, dồn biển lại,
khiến biển hoá thành đất khô cạn. Nước rẽ ra, 22 và con
cái Israel đi vào giữa lòng biển khô cạn, nước sừng sững như tường thành hai
bên tả hữu. 23 Quân Ai-cập đuổi theo; toàn thể chiến mã,
chiến xa và kỵ binh của Pharao tiến vào giữa lòng biển, đằng sau dân Israel.
24 Vào lúc gần sáng,
từ cột lửa và mây, Đức Chúa nhìn xuống hàng ngũ Ai-cập, Người gây rối loạn
trong hàng ngũ chúng.
25 Người làm cho chiến
xa kẹt bánh, khiến chúng phải vất vả mới di chuyển nổi. Quân Ai-cập bảo nhau:
"Ta phải trốn bọn Israel, vì Đức Chúa chiến đấu chống lại người Ai-cập để
giúp họ."
26 Đức Chúa phán với
ông Moses: "Hãy giơ tay trên mặt biển, nước sẽ ập xuống trên quân Ai-cập
cùng với chiến xa và kỵ binh của chúng."
27 Ông Moses giơ tay
trên mặt biển, và biển ập lại như cũ, vào lúc tảng sáng. Quân Ai-cập đang chạy
trốn thì gặp nước biển, Đức Chúa xô ngã quân Ai-cập giữa lòng biển.
28 Nước ập xuống, vùi
lấp chiến xa và kỵ binh, vùi lấp toàn thể quân lực của Pharao đã theo dân
Israel đi vào lòng biển. Không một tên nào sống sót. 29 Còn
con cái Israel đã đi giữa lòng biển khô cạn, nước sừng sững như tường thành hai
bên tả hữu. 30 Ngày đó, Đức Chúa đã cứu Israel khỏi tay
quân Ai-cập. Israel thấy quân Ai-cập phơi thây trên bờ biển.
31 Israel thấy Đức
Chúa đã ra tay hùng mạnh đánh quân Ai-cập. Toàn dân kính sợ Đức Chúa, tin vào
Đức Chúa, tin vào ông Moses, tôi trung của Người.
1 Bấy giờ ông Moses
cùng với con cái Israel hát mừng Đức Chúa bài ca sau đây. Họ ca rằng: "Tôi
xin hát mừng Chúa, Đấng cao cả uy hùng: Kỵ binh cùng chiến mã, Người xô xuống
đại dương.
3/ Bài đọc III:
5 Quả thế, Đấng cùng
ngươi sánh duyên cầm sắt chính là Đấng đã tác thành ngươi,
tôn danh Người là Đức Chúa các đạo binh; Đấng chuộc ngươi về, chính là Đức
Thánh của Israel, tước hiệu Người là Thiên Chúa toàn cõi đất.
6 Phải, Đức Chúa đã
gọi ngươi về, như người đàn bà bị ruồng bỏ, tâm thần sầu muộn.
"Người vợ cưới lúc thanh xuân, ai mà rẫy cho đành?" Thiên Chúa ngươi
phán như vậy.
7 Trong một thời
gian ngắn, Ta đã ruồng bỏ ngươi, nhưng vì lòng thương xót vô bờ, Ta sẽ đón
ngươi về tái hợp.
8 Lúc lửa giận bừng
bừng, Ta đã một thời ngoảnh mặt chẳng nhìn ngươi, nhưng vì tình nghĩa ngàn đời,
Ta lại chạnh lòng thương xót, Đức Chúa, Đấng cứu chuộc ngươi, phán như vậy.
9 Ta cũng sẽ làm như
thời Noah: lúc đó, Ta đã thề rằng hồng thủy sẽ không tràn ngập mặt đất nữa,
cũng vậy, nay Ta thề sẽ không còn nổi giận và hăm doạ ngươi đâu.
10 Núi có dời có đổi,
đồi có chuyển có lay, tình nghĩa của Ta đối với ngươi vẫn không thay đổi, giao
ước hoà bình của Ta cũng chẳng chuyển lay, Đức Chúa là Đấng thương xót ngươi
phán như vậy. 11 Hỡi thành đô khốn đốn, ba chìm bảy nổi,
không người ủi an! Này, đá của ngươi, Ta lấy phẩm màu tô điểm, nền móng ngươi,
Ta đặt trên lam ngọc,
12 lỗ châu mai tường
thành, Ta xây bằng hồng ngọc, các cửa thành ngươi, bằng pha lê, tường trong luỹ
ngoài, toàn đá quý.
13 Con cái ngươi, Đức
Chúa đều dạy dỗ, chúng sẽ được vui hưởng thái bình.
14 Nền tảng vững bền
của ngươi sẽ là đức công chính; ngươi sẽ thoát khỏi áp bức, không còn phải sợ
chi, sẽ thoát khỏi kinh hoàng, vì kinh hoàng sẽ không đến gần ngươi nữa.
4/ Bài đọc IV:
1 Đến cả đi, hỡi
những người đang khát, nước đã sẵn đây! Dầu không có tiền bạc, cứ đến mua mà
dùng; đến mua rượu mua sữa, không phải trả đồng nào.
2 Sao lại phí tiền
bạc vào của không nuôi sống, tốn công lao vất vả vào thứ chẳng làm cho chắc dạ
no lòng? Hãy chăm chú nghe Ta, thì các ngươi sẽ được ăn ngon, được thưởng thức
cao lương mỹ vị. 3 Hãy lắng tai và đến với Ta, hãy nghe
thì các ngươi sẽ được sống.
Ta sẽ lập với các ngươi một giao ước vĩnh cửu, để trọn bề nhân nghĩa với Đavít.
4 Này, Ta đã đặt
Đavít làm nhân chứng cho các dân, làm thủ lãnh chỉ huy các nước.
5 Này, ngươi sẽ
chiêu tập một dân tộc ngươi không quen biết; một dân tộc không quen biết ngươi
sẽ chạy đến với ngươi, vì Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi,
vì Đức Thánh của Israel đã làm cho ngươi được vinh hiển.
6 Hãy tìm Đức Chúa
khi Người còn cho gặp, kêu cầu Người lúc Người ở kề bên.
7 Kẻ gian ác, hãy bỏ
đường lối mình đang theo, người bất lương, hãy bỏ tư tưởng mình đang có mà trở
về với Đức Chúa - và Người sẽ xót thương - về với Thiên Chúa chúng ta, vì Người
sẽ rộng lòng tha thứ.
8 Thật vậy, tư tưởng
của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải
là đường lối của Ta - sấm ngôn của Đức Chúa.
9 Trời cao hơn đất
chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi,
và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy.
10 Cũng như mưa với
tuyết sa xuống từ trời không trở về trời nếu chưa thấm xuống đất, chưa làm cho
đất phì nhiêu và đâm chồi nẩy lộc, cho kẻ gieo có hạt giống, cho người đói có
bánh ăn,
11 thì lời Ta cũng
vậy, một khi xuất phát từ miệng Ta, sẽ không trở về với Ta nếu chưa đạt kết
quả, chưa thực hiện ý muốn của Ta, chưa chu toàn sứ mạng Ta giao phó.
5/ Bài đọc V:
6 Có lời Đức Chúa
phán với tôi rằng: 17 Hỡi con người, con cái nhà Israel
đang cư ngụ trên đất của chúng, đã làm cho đất ấy ra ô uế vì lối sống và các
hành vi của chúng; lối sống của chúng trước mặt Ta cũng ô uế như người đàn bà
trong thời kinh nguyệt.
18 Ta đã trút xuống
trên chúng cơn thịnh nộ của Ta vì máu chúng đã đổ ra trên đất ấy và làm cho đất
ấy ra ô uế vì các việc ô uế của chúng.
19 Ta đã tung chúng
đi các dân và gieo chúng vào các nước. Ta đã căn cứ vào lối sống và các hành vi
của chúng mà xét xử.
20 Chúng đã làm cho
danh Ta bị xúc phạm giữa các dân mà chúng đi đến, khiến người ta nói về chúng
rằng: "Đó là dân của Đức Chúa, chúng đã phải ra khỏi xứ của Người."
21 Nhưng Ta ái ngại
cho thánh danh Ta đã bị nhà Israel xúc phạm giữa các dân mà chúng đi đến. 22 Vì
thế, ngươi hãy nói với nhà Israel: Đức Chúa là Chúa Thượng phán thế này: Hỡi
nhà Israel, không phải vì các ngươi mà Ta hành động, mà vì danh thánh của Ta đã
bị các ngươi xúc phạm giữa các dân các ngươi đã đi đến.
23 Ta sẽ biểu dương
danh thánh thiện vĩ đại của Ta đã bị xúc phạm giữa chư dân, danh mà các ngươi
đã xúc phạm ở giữa chúng. Bấy giờ chư dân sẽ nhận biết chính Ta là Đức Chúa -
sấm ngôn của Đức Chúa là Chúa Thượng - khi Ta biểu dương sự thánh thiện của Ta
nơi các ngươi ngay trước mắt chúng.
24 Bấy giờ, Ta sẽ đem
các ngươi ra khỏi các dân tộc, sẽ quy tụ các ngươi lại từ khắp các nước, và sẽ
dẫn các ngươi về đất của các ngươi. 25 Rồi Ta sẽ rảy nước
thanh sạch trên các ngươi và các ngươi sẽ được thanh sạch, các ngươi sẽ được
sạch mọi ô uế và mọi tà thần.
26 Ta sẽ ban tặng các
ngươi một quả tim mới, sẽ đặt thần khí mới vào lòng các ngươi. Ta sẽ bỏ đi quả
tim bằng đá khỏi thân mình các ngươi và sẽ ban tặng các ngươi một quả tim bằng
thịt.
27 Chính thần trí của
Ta, Ta sẽ đặt vào lòng các ngươi, Ta sẽ làm cho các ngươi đi theo thánh chỉ,
tuân giữ các phán quyết của Ta và đem ra thi hành.
28 Các ngươi sẽ cư
ngụ trong đất Ta đã ban cho tổ tiên các ngươi. Các ngươi sẽ là dân của Ta. Còn
Ta, Ta sẽ là Thiên Chúa các ngươi.
6/ Bài đọc VI:
3 Anh em không biết
rằng: khi chúng ta được dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Đức Kitô Giêsu, là
chúng ta được dìm vào trong cái chết của Người sao?
4 Vì được dìm vào
trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế,
cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa
Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới.
5 Thật vậy, vì chúng
ta đã nên một với Đức Kitô nhờ được chết như Người đã chết, thì chúng ta cũng
sẽ nên một với Người, nhờ được sống lại như Người đã sống lại.
6 Chúng ta biết
rằng: con người cũ nơi chúng ta đã bị đóng đinh vào thập giá với Đức Kitô, như
vậy, con người do tội lỗi thống trị đã bị huỷ diệt, để chúng ta không còn làm
nô lệ cho tội lỗi nữa.
7 Quả thế, ai đã
chết, thì thoát khỏi quyền của tội lỗi. 8 Nếu chúng ta đã
cùng chết với Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người: đó là niềm tin
của chúng ta.
9 Thật vậy, chúng ta
biết rằng: một khi Đức Kitô đã sống lại từ cõi chết, thì không bao giờ Người
chết nữa, cái chết chẳng còn quyền chi đối với Người.
10 Người đã chết, là
chết đối với tội lỗi, và một lần là đủ. Nay Người sống, là sống cho Thiên Chúa. 11 Anh
em cũng vậy, hãy coi mình như đã chết đối với tội lỗi, nhưng nay lại sống cho
Thiên Chúa, trong Đức Kitô Giêsu.
7/ Phúc Âm:
1 Vừa hết ngày
Sabbath, bà Maria Magdala với bà Maria mẹ ông Giacôbê, và bà Salômê, mua dầu
thơm để đi ướp xác Đức Giêsu.
2 Sáng tinh sương
ngày thứ nhất trong tuần, lúc mặt trời hé mọc, các bà ra mộ.
3 Các bà bảo nhau:
"Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ giùm ta đây?"
4 Nhưng vừa ngước
mắt lên, các bà đã thấy tảng đá lăn ra một bên rồi, mà tảng đá ấy lớn lắm.
5 Vào trong mộ, các
bà thấy một người thanh niên ngồi bên phải, mặc áo trắng; các bà hoảng sợ.
6 Nhưng người thanh
niên liền nói: "Đừng hoảng sợ! Các bà tìm Đức Giêsu Nazareth, Đấng bị đóng
đinh chứ gì! Người đã trỗi dậy rồi, không còn đây nữa. Chỗ đã đặt Người đây
này!
7 Xin các bà về nói
với môn đệ Người và ông Phêrô rằng Người sẽ đến Galilee trước các ông. Ở đó, các
ông sẽ được thấy Người như Người đã nói với các ông."
8 Vừa ra khỏi mộ,
các bà liền chạy trốn, run lẩy bẩy, hết hồn hết vía. Các bà chẳng nói gì với
ai, vì sợ hãi.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Lịch sử Cứu Độ của Thiên
Chúa
Thiên
Chúa chúng ta thờ là Thiên Chúa duy nhất trong vũ trụ này. Sự kiện Ngài cho Con
của Ngài, Đức Giêsu Kitô, từ cõi chết sống lại một lần nữa chứng tỏ điều này.
Nhìn lại lịch sử cứu độ, chúng ta thấy Ngài là Đấng dựng nên vũ trụ và điều
khiển muôn loài. Ngài đã chọn Israel như dân riêng để chuẩn bị cho Đấng Cứu Thế
ra đời. Ngài trung thành trong những gì Ngài đã hứa với con người cho dù con
người đã phản bội Ngài. Ngài luôn tìm cách để cứu độ con người qua biến cố Xuất
Hành, qua việc giải phóng và cho dân hồi hương từ các nơi lưu đày. Nhưng sự
kiện nổi bật nhất trong lịch sử cứu độ là gởi Đấng Thiên Sai tới mang lấy thân
xác con người để chuộc tội cho mọi người. Đấng Thiên Sai đã trải qua cuộc khổ
nạn và sống lại vinh quang là trọng tâm của Mầu Nhiệm Phục Sinh chúng ta cử
hành đêm nay.
Trong
phần phụng vụ Lời Chúa hôm nay, Giáo Hội muốn các tín hữu nhìn lại lịch sử Cứu
Độ của Thiên Chúa, bắt đầu với việc tạo dựng vũ trụ và con người, và kết thúc
bằng biến cố Phục Sinh của Đức Kitô. Nơi nào hòan cảnh cho phép, Giáo Hội
khuyến khích đọc cả 7 bài; nơi nào hòan cảnh không cho phép, phải đọc đọc 3
bài: Biến cố Xuất Hành, ý nghĩa của Bí-tích Rửa Tội trong Thư Rôma, và Biến cố
Phục Sinh theo Marcô. Thông thường, các giáo xứ đọc 5 bài: trình thuật tạo dựng
trong Sáng Thế Ký, trình thuật tái tạo một quả tim mới và thần khí mới của tiên
tri Ezekiel, và 3 bài phải đọc. Hai bài từ Sách Isaiah về sự trung thành yêu
thương của Thiên Chúa, và những gì sẽ xảy ra khi triều đại của Đấng Thiên Sai
tới, cho những nơi có hòan cảnh đọc cả 7 bài.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I: Thiên
Chúa sáng tạo trời đất và mọi lòai trong đó.
Trình
thuật tạo dựng này rất quan trọng cho những ai đang muốn tước quyền sống của
thai nhi, người già cả, và các bệnh nhân phải chịu bệnh lâu ngày. Con người
không có quyền trên sự sống, họ được trao quyền để bảo vệ sự sống mà thôi.
Lương thực Thiên Chúa dựng nên không bao giờ cạn, vì các hạt giống đều có tiềm
năng sinh nhiều hạt giống khác, chim trời không ngừng đẻ trứng, cá biển mang
những buồng trứng khổng lồ, súc vật cũng có khả năng sinh sôi nẩy nở vô số. Vì
thế, Thiên Chúa cũng truyền cho con người phải sinh sản cho đầy mặt đất. Con
người không được nhân danh thiếu đồ ăn để tước đi quyền sống của bất cứ ai.
(1)
Ngày thứ nhất, Thiên Chúa dựng nên ánh sáng và bóng tối: “Lúc khởi đầu, Thiên
Chúa sáng tạo trời đất. Đất còn trống rỗng, chưa có hình dạng, bóng tối bao
trùm vực thẳm, và thần khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước. Thiên Chúa phán:
"Phải có ánh sáng." Liền có ánh sáng. Thiên Chúa thấy rằng ánh sáng
tốt đẹp. Thiên Chúa phân rẽ ánh sáng và bóng tối. Thiên Chúa gọi ánh sáng là
"ngày," bóng tối là "đêm." Qua một buổi chiều và một buổi
sáng: đó là ngày thứ nhất.
(2)
Ngày thứ hai, Thiên Chúa dựng nên trời: “Thiên Chúa phán: "Phải có một cái
vòm ở giữa khối nước, để phân rẽ nước với nước." Thiên Chúa làm ra cái vòm
đó và phân rẽ nước phía dưới vòm với nước phía trên. Liền có như vậy. Thiên
Chúa gọi vòm đó là "trời." Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là
ngày thứ hai.”
(3)
Ngày thứ ba, Thiên Chúa dựng nên đất và các lòai thảo mộc: “Thiên Chúa phán:
"Nước phía dưới trời phải tụ lại một nơi, để chỗ cạn lộ ra." Liền có
như vậy. Thiên Chúa gọi chỗ cạn là "đất," khối nước tụ lại là
"biển." Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp. Thiên Chúa phán: "Đất
phải sinh thảo mộc xanh tươi, cỏ mang hạt giống, và cây trên mặt đất có trái,
ra trái tuỳ theo loại, trong có hạt giống." Liền có như vậy. Đất trổ sinh
thảo mộc, cỏ mang hạt giống tuỳ theo loại, và cây ra trái, trong trái có hạt
giống tuỳ theo loại. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp. Qua một buổi chiều và một
buổi sáng: đó là ngày thứ ba.”
(4)
Ngày thứ tư, Thiên Chúa dựng nên mặt trời, mặt trăng, và các tinh thể trên vòm
trời: “Thiên Chúa phán: "Phải có những vầng sáng trên vòm trời, để phân rẽ
ngày với đêm, để làm dấu chỉ xác định các đại lễ, ngày và năm. Đó sẽ là những
vầng sáng trên vòm trời để chiếu soi mặt đất." Liền có như vậy. Thiên Chúa
làm ra hai vầng sáng lớn: vầng sáng lớn hơn để điều khiển ngày, vầng sáng nhỏ
hơn để điều khiển đêm; Người cũng làm ra các ngôi sao. Thiên Chúa đặt các vầng
sáng trên vòm trời để chiếu soi mặt đất, để điều khiển ngày và đêm, và để phân
rẽ ánh sáng với bóng tối. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp. Qua một buổi chiều và
một buổi sáng: đó là ngày thứ tư.”
(5)
Ngày thứ năm, Thiên Chúa dựng nên chim trời, cá biển: “Thiên Chúa phán:
"Nước phải sinh ra đầy dẫy những sinh vật lúc nhúc, và loài chim phải bay
lượn trên mặt đất, dưới vòm trời." Thiên Chúa sáng tạo các thủy quái khổng
lồ, cùng mọi sinh vật vẫy vùng lúc nhúc dưới nước tuỳ theo loại, và mọi giống
chim bay tuỳ theo loại. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp. Thiên Chúa chúc phúc
cho chúng rằng: "Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy biển; và chim
phải sinh sản cho nhiều trên mặt đất." Qua một buổi chiều và một buổi
sáng: đó là ngày thứ năm.”
(6)
Ngày thứ sáu, Thiên Chúa dựng nên thú vật và con người.
-
Tạo dựng thú vật: “Thiên Chúa phán: "Đất phải sinh ra các sinh vật tuỳ
theo loại: gia súc, loài bò sát và dã thú tuỳ theo loại." Liền có như vậy.
Thiên Chúa làm ra dã thú tuỳ theo loại, gia súc tuỳ theo loại và loài bò sát
dưới đất tuỳ theo loại. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp.
-
Tạo dựng con người: Thiên Chúa phán: "Chúng ta hãy làm ra con người theo
hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta, để con người làm bá chủ cá biển, chim
trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất." Thiên
Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo con người theo
hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ. Thiên Chúa ban
phúc lành cho họ, và Thiên Chúa phán với họ: "Hãy sinh sôi nảy nở thật
nhiều, cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất. Hãy làm bá chủ cá biển, chim
trời, và mọi giống vật bò trên mặt đất." Thiên Chúa phán: "Đây Ta ban
cho các ngươi mọi thứ cỏ mang hạt giống trên khắp mặt đất, và mọi thứ cây có
trái mang hạt giống, để làm lương thực cho các ngươi. Còn đối với mọi dã thú,
chim trời và mọi vật bò dưới đất mà có sinh khí, thì Ta ban cho chúng mọi thứ
cỏ xanh tươi để làm lương thực. Liền có như vậy." Thiên Chúa thấy mọi sự
Người đã làm ra quả là rất tốt đẹp! Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là
ngày thứ sáu.
(7)
Ngày thứ bảy, Thiên Chúa nghỉ ngơi: “Thế là trời đất cùng với mọi thành phần đã
hoàn tất. Ngày thứ bảy, Thiên Chúa đã hoàn thành công việc Người làm. Khi làm
xong mọi công việc của Người, ngày thứ bảy, Thiên Chúa nghỉ ngơi.”
2/
Bài đọc II: Israel
thấy Đức Chúa đã ra tay hùng mạnh đánh quân Ai-cập.
Cuộc
xuất hành của Israel ra khỏi Ai-cập: Sau khi ông Giuse qua đời, vị vua mới,
Pharaoh, lên ngôi. Ông không còn nhớ gì tới công ơn của Giuse; nhưng hành hạ
người Do-thái sống trên đất Ai-cập, bắt họ sống kiếp nô lệ cho người Ai-cập.
Dân chúng kêu cầu lên Thiên Chúa, và Ngài đã chọn ông Moses và Aaron để cứu dân
thóat khỏi tay người Ai-cập.
(1)
Kế họach cứu độ dân được mặc khải cho ông Moses: “Đức Chúa phán với ông Moses:
"Có gì mà phải kêu cứu Ta? Hãy bảo con cái Israel cứ nhổ trại. Phần ngươi,
cầm gậy lên, giơ tay trên mặt biển, rẽ nước ra cho có lối đi khô ráo ngay giữa
lòng biển, để con cái Israel đi vào. Còn Ta, Ta sẽ làm cho lòng người Ai-cập ra
chai đá. Chúng sẽ tiến vào sau các ngươi. Bấy giờ Ta sẽ được vẻ vang hiển hách
khi đánh bại Pharaoh cùng toàn thể quân lực, chiến xa và kỵ binh của vua ấy.
Người Ai-cập sẽ biết rằng chính Ta là Đức Chúa, khi Ta được vẻ vang hiển hách
vì đã đánh bại Pharaoh cùng chiến xa và kỵ binh của vua ấy."
(2)
Dân Israel đi qua Biển Đỏ ráo chân: Để thóat khỏi đất Ai-cập, dân chúng phải
vượt Biển Đỏ. Làm sao dân chúng có thể vượt biển mà không có thuyền bè, nhất là
cho một đám đông dân Do-thái như vậy? Thiên Chúa làm rẽ nước biển làm hai, dựng
đứng như hai bức tường thành để dân Ngài đi qua: “Thiên sứ của Thiên Chúa đang
đi trước hàng ngũ Israel, lại rời chỗ mà xuống đi đàng sau họ. Cột mây bỏ phía
trước mà đứng về phía sau, chen vào giữa hàng ngũ Ai-cập và hàng ngũ Israel.
Bên kia, mây toả mịt mù, bên này, mây lại sáng soi đêm tối, khiến cho hai bên
suốt đêm không xáp lại gần nhau được. Ông Moses giơ tay trên mặt biển, Đức Chúa
cho một cơn gió đông thổi mạnh suốt đêm, dồn biển lại, khiến biển hoá thành đất
khô cạn. Nước rẽ ra, và con cái Israel đi vào giữa lòng biển khô cạn, nước sừng
sững như tường thành hai bên tả hữu.”
(3)
Chúa tiêu hủy toàn bộ quân đội của Pharaoh trong Biển Đỏ: Thấy dân Do-thái đi
qua Biển Đỏ. “Quân Ai-cập đuổi theo; toàn thể chiến mã, chiến xa và kỵ binh của
Pharao tiến vào giữa lòng biển, đằng sau dân Israel. Vào lúc gần sáng, từ cột
lửa và mây, Đức Chúa nhìn xuống hàng ngũ Ai-cập, Người gây rối loạn trong hàng
ngũ chúng. Người làm cho chiến xa kẹt bánh khiến chúng phải vất vả mới di
chuyển nổi. Quân Ai-cập bảo nhau: "Ta phải trốn bọn Israel, vì Đức Chúa
chiến đấu chống lại người Ai-cập để giúp họ."”
Đức
Chúa phán với ông Moses: "Hãy giơ tay trên mặt biển, nước sẽ ập xuống trên
quân Ai-cập cùng với chiến xa và kỵ binh của chúng." Ông Moses giơ tay
trên mặt biển, và biển ập lại như cũ, vào lúc tảng sáng. Quân Ai-cập đang chạy
trốn thì gặp nước biển, Đức Chúa xô ngã quân Ai-cập giữa lòng biển. Nước ập
xuống, vùi lấp chiến xa và kỵ binh, vùi lấp toàn thể quân lực của Pharaoh đã
theo dân Israel đi vào lòng biển. Không một tên nào sống sót.”
(4)
Dân Israel nhận ra quyền lực của Thiên Chúa và tin vào Ngài: “Con cái Israel đã
đi giữa lòng biển khô cạn, nước sừng sững như tường thành hai bên tả hữu. Ngày
đó, Đức Chúa đã cứu Israel khỏi tay quân Ai-cập. Israel thấy quân Ai-cập phơi
thây trên bờ biển. Israel thấy Đức Chúa đã ra tay hùng mạnh đánh quân Ai-cập. Toàn
dân kính sợ Đức Chúa, tin vào Đức Chúa, tin vào ông Moses, tôi trung của Người.
Bấy giờ ông Moses cùng với con cái Israel hát mừng Đức Chúa bài ca sau đây. Họ
ca rằng: "Tôi xin hát mừng Chúa, Đấng cao cả uy hùng: Kỵ binh cùng chiến
mã, Người xô xuống đại dương.””
3/
Bài đọc III:Thiên Chúa trung thành yêu thương dân Ngài đến
muôn đời.
3.1/
Tình nghĩa chồng vợ giữa Thiên Chúa và Israel:
-
Thiên Chúa được ví như người chồng: “Quả thế, Đấng cùng ngươi sánh duyên cầm
sắt chính là Đấng đã tác thành ngươi, tôn danh Người là Đức Chúa các đạo binh;
Đấng chuộc ngươi về, chính là Đức Thánh của Israel, tước hiệu Người là Thiên
Chúa toàn cõi đất.”
-
Israel được ví như người vợ bất trung: “Phải, Đức Chúa đã gọi ngươi về, như
người đàn bà bị ruồng bỏ, tâm thần sầu muộn. "Người vợ cưới lúc thanh
xuân, ai mà rẫy cho đành?" Thiên Chúa ngươi phán như vậy. Trong một thời
gian ngắn, Ta đã ruồng bỏ ngươi, nhưng vì lòng thương xót vô bờ, Ta sẽ đón
ngươi về tái hợp. Lúc lửa giận bừng bừng, Ta đã một thời ngoảnh mặt chẳng nhìn
ngươi, nhưng vì tình nghĩa ngàn đời, Ta lại chạnh lòng thương xót, Đức Chúa,
Đấng cứu chuộc ngươi, phán như vậy.”
3.2/
Tình yêu Thiên Chúa với Israel sẽ bền vững muôn đời.
-
Chúa đánh phạt rồi Ngài lại xót thương: “Ta cũng sẽ làm như thời Noah: lúc đó,
Ta đã thề rằng hồng thủy sẽ không tràn ngập mặt đất nữa, cũng vậy, nay Ta thề
sẽ không còn nổi giận và hăm doạ ngươi đâu. Núi có dời có đổi, đồi có chuyển có
lay, tình nghĩa của Ta đối với ngươi vẫn không thay đổi, giao ước hoà bình của
Ta cũng chẳng chuyển lay, Đức Chúa là Đấng thương xót ngươi phán như vậy.”
-
Ngài sẽ cho dân về để tái thiết thành Jerusalem: “Hỡi thành đô khốn đốn, ba
chìm bảy nổi, không người ủi an! Này, đá của ngươi, Ta lấy phẩm màu tô điểm,
nền móng ngươi, Ta đặt trên lam ngọc, lỗ châu mai tường thành, Ta xây bằng hồng
ngọc, các cửa thành ngươi, bằng pha lê, tường trong luỹ ngoài, toàn đá quý.”
-
Ngài sẽ bảo vệ con cái của Israel: “Con cái ngươi, Đức Chúa đều dạy dỗ, chúng
sẽ được vui hưởng thái bình. Nền tảng vững bền của ngươi sẽ là đức công chính;
ngươi sẽ thoát khỏi áp bức, không còn phải sợ chi, sẽ thoát khỏi kinh hoàng, vì
kinh hoàng sẽ không đến gần ngươi nữa.”
4/
Bài đọc IV: Những
gì sẽ xảy ra khi triều đại của Đấng Thiên Sai tới.
4.1/
Lời tiên đóan về Bí-tích Thánh Thể: “Đến cả đi, hỡi những người đang khát, nước
đã sẵn đây! Dầu không có tiền bạc, cứ đến mua mà dùng; đến mua rượu mua sữa,
không phải trả đồng nào. Sao lại phí tiền bạc vào của không nuôi sống, tốn công
vất vả vào thứ chẳng làm cho chắc dạ no lòng? Hãy chăm chú nghe Ta, thì các
ngươi sẽ được ăn ngon, được thưởng thức cao lương mỹ vị. Hãy lắng tai và đến
với Ta, hãy nghe thì các ngươi sẽ được sống.”
4.2/
Lời tiên đóan về giao ước mới: Giòng dõi David sẽ làm vua cai trị dân Người.
(1)
Giao ước mới và vĩnh cửu: “Ta sẽ lập với các ngươi một giao ước vĩnh cửu, để
trọn bề nhân nghĩa với David. Này, Ta đã đặt David làm nhân chứng cho các dân,
làm thủ lãnh chỉ huy các nước. Này, ngươi sẽ chiêu tập một dân tộc ngươi không
quen biết; một dân tộc không quen biết ngươi sẽ chạy đến với ngươi, vì Đức
Chúa, Thiên Chúa của ngươi, vì Đức Thánh của Israel đã làm cho ngươi được vinh
hiển.”
-
Người sẽ là Vua của các dân tộc, chứ không phải chỉ là Vua của Israel mà thôi.
(2)
Kêu gọi dân trở về với Thiên Chúa: “Hãy tìm Đức Chúa khi Người còn cho gặp, kêu
cầu Người lúc Người ở kề bên. Kẻ gian ác, hãy bỏ đường lối mình đang theo,
người bất lương, hãy bỏ tư tưởng mình đang có mà trở về với Đức Chúa - và Người
sẽ xót thương - về với Thiên Chúa chúng ta, vì Người sẽ rộng lòng tha thứ.”
4.3/
Sự khác biệt giữa Thiên Chúa và con người:
(1)
Về tư tưởng và đường lối họat động: “Thật vậy, tư tưởng của Ta không phải là tư
tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta -
sấm ngôn của Đức Chúa. Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao
hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi
chừng ấy.”
(2)
Hiệu quả của Lời Chúa: “Cũng như mưa với tuyết sa xuống từ trời không trở về
trời nếu chưa thấm xuống đất, chưa làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi nẩy lộc,
cho kẻ gieo có hạt giống, cho người đói có bánh ăn, thì lời Ta cũng vậy, một
khi xuất phát từ miệng Ta, sẽ không trở về với Ta nếu chưa đạt kết quả, chưa
thực hiện ý muốn của Ta, chưa chu toàn sứ mạng Ta giao phó.”
5/
Bài đọc V: Ta sẽ
ban tặng các ngươi một quả tim mới, sẽ đặt thần khí mới vào lòng các ngươi.
5.1/
Israel đã làm cho đất ấy ra ô uế vì lối sống và các hành vi của chúng: Tiên tri
Ezekiel và dân tộc Israel phải sống trong các nơi lưu đày vì tội lỗi của họ đã
xúc phạm đến Thiên Chúa. Sống trong nơi lưu đày, Thiên Chúa kêu gọi họ hãy bỏ
đàng tội lỗi và quay về với Lề Luật của Thiên Chúa; nhưng họ đã không nghe:
cuộc sống của họ nơi đất khách quê người càng làm ô danh Thiên Chúa và làm cho
đất đai, nơi họ đang sinh sống, ra ô uế.
Tiên
tri Ezekiel tường thuật những gì Thiên Chúa phán với ngài: “Có lời Đức Chúa
phán với tôi rằng: Hỡi con người, con cái nhà Israel đang cư ngụ trên đất của
chúng, đã làm cho đất ấy ra ô uế vì lối sống và các hành vi của chúng; lối sống
của chúng trước mặt Ta cũng ô uế như người đàn bà trong thời kinh nguyệt. Ta đã
trút xuống trên chúng cơn thịnh nộ của Ta vì máu chúng đã đổ ra trên đất ấy và
làm cho đất ấy ra ô uế vì các việc ô uế của chúng. Ta đã tung chúng đi các dân
và gieo chúng vào các nước. Ta đã căn cứ vào lối sống và các hành vi của chúng
mà xét xử. Chúng đã làm cho Danh Ta bị xúc phạm giữa các dân mà chúng đi đến,
khiến người ta nói về chúng rằng: "Đó là dân của Đức Chúa, chúng đã phải
ra khỏi xứ của Người." Nhưng Ta ái ngại cho thánh danh Ta đã bị nhà Israel
xúc phạm giữa các dân mà chúng đi đến.”
5.2/
Vì Danh Thánh, Thiên Chúa sẽ thanh tẩy dân Ngài: “Vì thế, ngươi hãy nói với nhà
Israel: Đức Chúa là Chúa Thượng phán thế này: Hỡi nhà Israel, không phải vì các
ngươi mà Ta hành động, mà vì danh thánh của Ta đã bị các ngươi xúc phạm giữa
các dân các ngươi đã đi đến.
Ta
sẽ biểu dương Danh thánh thiện vĩ đại của Ta đã bị xúc phạm giữa chư dân, danh
mà các ngươi đã xúc phạm ở giữa chúng. Bấy giờ chư dân sẽ nhận biết chính Ta là
Đức Chúa - sấm ngôn của Đức Chúa là Chúa Thượng - khi Ta biểu dương sự thánh
thiện của Ta nơi các ngươi ngay trước mắt chúng.” Ba điều Thiên Chúa sẽ làm cho
Israel:
(1)
Cho dân Israel hồi hương: “Bấy giờ, Ta sẽ đem các ngươi ra khỏi các dân tộc, sẽ
quy tụ các ngươi lại từ khắp các nước, và sẽ dẫn các ngươi về đất của các
ngươi.”
(2)
Thanh tẩy dân chúng: “Rồi Ta sẽ rảy nước thanh sạch trên các ngươi và các ngươi
sẽ được thanh sạch, các ngươi sẽ được sạch mọi ô uế và mọi tà thần. Ta sẽ ban
tặng các ngươi một quả tim mới, sẽ đặt thần khí mới vào lòng các ngươi. Ta sẽ
bỏ đi quả tim bằng đá khỏi thân mình các ngươi và sẽ ban tặng các ngươi một quả
tim bằng thịt. Chính thần trí của Ta, Ta sẽ đặt vào lòng các ngươi, Ta sẽ làm
cho các ngươi đi theo thánh chỉ, tuân giữ các phán quyết của Ta và đem ra thi
hành.”
(3)
Ngài sẽ nối lại mối liên hệ với Israel: “Các ngươi sẽ cư ngụ trong đất Ta đã
ban cho tổ tiên các ngươi. Các ngươi sẽ là dân của Ta. Còn Ta, Ta sẽ là Thiên
Chúa các ngươi.”
6/
Bài đọc VI: Nếu
chúng ta cùng chết với Đức Kitô, chúng ta sẽ cùng được sống lại với Người.
6.1/
Ý nghĩa của Bí tích Rửa Tội: Thánh Phaolô nhấn mạnh đến hai chiều kích của
Bí-tích:
(1)
Chiều đi xuống là dìm mình trong cái chết của Đức Kitô: “Anh em không biết
rằng: khi chúng ta được dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Đức Kitô Giêsu, là
chúng ta được dìm vào trong cái chết của Người sao? Vì được dìm vào trong cái
chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người.”
(2)
Chiều đi lên là cùng được sống lại vinh hiển với Người: “Bởi thế, cũng như
Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì
chúng ta cũng được sống một đời sống mới. Thật vậy, vì chúng ta đã nên một với
Đức Kitô nhờ được chết như Người đã chết, thì chúng ta cũng sẽ nên một với
Người, nhờ được sống lại như Người đã sống lại.”
6.2/
Làm thế nào để sống đức tin của Bí tích Rửa Tội?
(1)
Phải từ bỏ con người cũ và nếp sống tội lỗi: “Chúng ta biết rằng: con người cũ
nơi chúng ta đã bị đóng đinh vào thập giá với Đức Kitô, như vậy, con người do
tội lỗi thống trị đã bị huỷ diệt, để chúng ta không còn làm nô lệ cho tội lỗi
nữa. Quả thế, ai đã chết, thì thoát khỏi quyền của tội lỗi.”
(2)
Phải mặc lấy Đức Kitô và sống đời sống mới cho Thiên Chúa (nhân đức và ân
sủng): “Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với
Người: đó là niềm tin của chúng ta. Thật vậy, chúng ta biết rằng: một khi Đức
Kitô đã sống lại từ cõi chết, thì không bao giờ Người chết nữa, cái chết chẳng
còn quyền chi đối với Người. Người đã chết, là chết đối với tội lỗi, và một lần
là đủ. Nay Người sống, là sống cho Thiên Chúa. Anh em cũng vậy, hãy coi mình
như đã chết đối với tội lỗi, nhưng nay lại sống cho Thiên Chúa, trong Đức Kitô
Giêsu.”
7/
Phúc Âm: Người đã trỗi dậy rồi,
không còn ở đây nữa.
7.1/
Lối suy nghĩ của con người: Các bà này là những người đã chứng kiến cuộc tử
nạn, tháo đanh, và táng xác Chúa Giêsu trong hang đá. Khi táng xác, các bà
không kịp ướp xác Chúa, vì là ngày Sabbath; nên các bà nóng lòng chờ đến ngày
hôm sau để ra mộ ướp xác Ngài. Truyền thống Do-thái tin: người chết mà không
được ướp xác là điều xỉ nhục.
(1)
Chuẩn bị ướp xác Chúa: “Vừa hết ngày Sabbath, bà Maria Magdala với bà Maria mẹ
ông Giacôbê, và bà Salômê, mua dầu thơm để đi ướp xác Đức Giêsu. Sáng tinh
sương ngày thứ nhất trong tuần, lúc mặt trời hé mọc, các bà ra mộ.”
(2)
Nỗi lo sợ không đủ sức để lăn tảng đá khỏi cửa mộ: Các tông đồ đã bỏ trốn cả vì
sợ người Do-thái. Các bà có thể đi lại dễ dàng, nhưng không thể tìm một người
đàn ông để giúp mình lăn tảng đá ra khỏi mộ, vì là một tảng đá nặng. Đang khi
đi đường, các bà bảo nhau: "Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ giùm ta
đây?" Nhưng vừa ngước mắt lên, các bà đã thấy tảng đá lăn ra một bên rồi,
mà tảng đá ấy lớn lắm.
7.2/
Tin Mừng Phục Sinh: Các bà không thể hiểu “từ cõi chết sống lại có nghĩa gì;”
vì truyền thống Do-thái tin chết là hết. Các bà không thể tin Chúa Giêsu đã
sống lại từ cõi chết.
(1)
Thiên thần cắt nghĩa cho các bà: “Vào trong mộ, các bà thấy một người thanh
niên ngồi bên phải, mặc áo trắng; các bà hoảng sợ. Nhưng người thanh niên liền
nói: "Đừng hoảng sợ! Các bà tìm Đức Giêsu Nazareth, Đấng bị đóng đinh chứ
gì! Người đã trỗi dậy rồi, không còn đây nữa. Chỗ đã đặt Người đây này!” Đã
không thấy xác Chúa, lại còn gặp một thanh niên lạ mặt, các bà còn hỏang sợ hơn
nữa. Làm sao có thể tin những lời thanh niên này nói? Nhưng vì quá sợ, nên các
bà không dám hỏi. Có lẽ các bà nghĩ như Maria trong trình thuật Gioan: chắc ông
này đã lấy xác Chúa!
(2)
Các tông đồ sẽ được nhìn thấy Chúa tại Galilee: Người thanh niên nói tiếp: “Xin
các bà về nói với môn đệ Người và ông Phêrô rằng Người sẽ đến Galilee trước các
ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Người như Người đã nói với các ông."
- Phản
ứng của các bà: “Vừa ra khỏi mộ, các bà liền chạy trốn, run lẩy bẩy, hết hồn
hết vía. Các bà chẳng nói gì với ai, vì sợ hãi.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Thiên Chúa chúng ta thờ là Thiên Chúa thật; Ngài có uy quyền dựng nên tất cả,
giải thoát dân khỏi mọi nguy hiểm, và trung thành yêu thương chúng ta đến cùng.
-
Thiên Chúa dựng nên con người với một mục đích là cho con người được chung
hưởng vinh quang với Ngài sau cuộc đời trên dương thế này.
-
Vì Đức Kitô đã chịu chết và sống lại vinh hiển, cho nên, nếu chúng ta đã cùng
chết với Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ cùng được sống lại vinh hiển với Người.
-
Chúng ta phải cố gắng để đạt tới đích điểm là chung hưởng cuộc sống vinh quang
với Thiên Chúa trên thiên đàng.