Thứ Bảy, 21 tháng 1, 2012

TIN MỪNG HẰNG NGÀY CHÚA NHẬT THỨ III THƯỜNG NIÊN NĂM B 21/1/2012


Chủ Nhật III Thường Niên, Năm B
Bài đọcJon 3:1-5, 10; I Cor 7:29-31; Mk 1:14-20

1/ Bài đọc I:
1 Có lời ĐỨC CHÚA phán với ông Giô-na lần thứ hai rằng:2 "Hãy đứng dậy, đi đến Ni-ni-vê, thành phố lớn, và hô cho dân thành biết lời tuyên cáo Ta sẽ truyền cho ngươi."
3 Ông Giô-na đứng dậy và đi Ni-ni-vê, như lời ĐỨC CHÚA phán. Ni-ni-vê là một thành phố cực kỳ rộng lớn, đi ngang qua phải mất ba ngày đường.
4 Ông Giô-na bắt đầu vào thành, đi một ngày đường và công bố: "Còn bốn mươi ngày nữa, Ni-ni-vê sẽ bị phá đổ."
5 Dân Ni-ni-vê tin vào Thiên Chúa, họ công bố lệnh ăn chay và mặc áo vải thô, từ người lớn đến trẻ nhỏ.
10 Thiên Chúa thấy việc họ làm, thấy họ bỏ đường gian ác mà trở lại, Người hối tiếc về tai hoạ Người đã tuyên bố sẽ giáng trên họ, Người đã không giáng xuống nữa.
2/ Bài đọc II:
29 Thưa anh em, tôi xin nói với anh em điều này: thời gian chẳng còn bao lâu. Vậy từ nay những người có vợ hãy sống như không có;30 ai khóc lóc, hãy làm như không khóc; ai vui mừng, như chẳng mừng vui; ai mua sắm, hãy làm như không có gì cả;31 kẻ hưởng dùng của cải đời này, hãy làm như chẳng hưởng. Vì bộ mặt thế gian này đang biến đi. 
3/ Phúc Âm:
14 Sau khi ông Gio-an bị nộp, Đức Giê-su đến miền Ga-li-lê rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa.15 Người nói: "Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng."16 Người đang đi dọc theo biển hồ Ga-li-lê, thì thấy ông Si-môn với người anh là ông An-rê, đang quăng lưới xuống biển, vì họ làm nghề đánh cá.17 Người bảo họ: "Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá."18 Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người.19 Đi xa hơn một chút, Người thấy ông Gia-cô-bê, con ông Dê-bê-đê, và người em là ông Gio-an. Hai ông này đang vá lưới ở trong thuyền.20 Người liền gọi các ông. Và các ông bỏ cha mình là ông Dê-bê-đê ở lại trên thuyền với những người làm công, mà đi theo Người. 


GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Thời kỳ đã mãn, hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.
             Thời gian có sức biến đổi con người trở nên tốt hay xấu hơn. Nếu biết dùng thời gian mà nắm lấy cơ hội, con người sẽ đạt được kết quả mong muốn; nếu không biết nắm lấy thời gian, cơ hội qua đi, con người phải gánh chịu mọi hậu quả xấu, ngay cả cái chết.
            Các Bài Đọc hôm nay đều chỉ cho thấy sự thúc đẩy nghiêm trọng của thời gian. Trong Bài Đọc I, Thiên Chúa truyền cho Tiên-tri Jonah phải đi rao giảng cho dân Thành Nineveh biết cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống trên họ. Tiên tri mua vé tàu qua Tarshish, với hy vọng có thể trốn khỏi thiên nhan Đức Chúa. Hậu quả xảy ra là ông bị ném xuống biển. May phước cho ông là được thóat chết. Thiên Chúa truyền lần thứ hai, lần này ông vâng lệnh đi rao giảng. Dân Thành Nineveh tin vào sứ điệp ông rao giảng. Họ tuyên bố thời gian chay tịnh trên tòan nước: vua cũng như dân, từ con người đến súc vật, với hy vọng Thiên Chúa sẽ đình chỉ những hình phạt mà Ngài sắp giáng xuống trên họ. Hy vọng của họ được Thiên Chúa nhận lời. Trong Bài Đọc II, Thánh Phaolô cũng khuyên các tín hữu Corintô: Vì thời gian chẳng còn bao lâu nữa là đến Ngày Chúa Quang Lâm, mọi người hãy chú trọng đến những giá trị vĩnh cửu đời sau, đừng quá chú trọng đến những giá trị đời này; hãy dùng chúng như không hưởng thụ, vì bộ mặt của thế gian đang qua đi. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu loan truyền sứ điệp: "Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng."  
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc IDân Nineveh tin vào Thiên Chúa.
             1.1/ Đức Chúa phán với ông Jonah lần thứ hai: Điều này giả sử phải có lần thứ nhất.

            (1) Đức Chúa phán với Jonah lần thứ nhất: "Hãy đứng dậy, đi đến Nineveh, thành phố lớn, và hô cho dân thành biết rằng sự gian ác của chúng đã lên thấu tới Ta." Ông Jonah đứng dậy nhưng là để trốn đi Tarshish, tránh nhan Đức Chúa. Ông xuống Joppa và tìm được một chiếc tàu sắp đi Tarshish. Ông trả tiền, xuống tàu để cùng đi Tarshish với họ, để tránh nhan Đức Chúa. Lý do ông bất tuân lệnh Thiên Chúa là vì ông ghét người ngọai bang, nhất là người Babylon, người mà Chúa truyền cho ông đi tới. Hậu quả là thuyền ông bị đắm, ông bị thủy thủ quăng xuống biển, và bị một con cá voi lớn táp. Như một phép lạ, ông ở trong bụng cá 3 ngày 3 đêm, ông tha thiết cầu nguyện với Thiên Chúa, Ngài đã nhận lời và làm cho cá vào bờ và nhả ông ra (Joh 1:1- 2:11).
            (2) Đức Chúa phán với Jonah lần thứ hai: "Hãy đứng dậy, đi đến Nineveh, thành phố lớn, và hô cho dân thành biết lời tuyên cáo Ta sẽ truyền cho ngươi." Có kinh nghiệm lần trước, ông Jonah không dám bất tuân, ông đứng dậy và đi Nineveh, như lời Đức Chúa phán. Nineveh là một thành phố cực kỳ rộng lớn, đi ngang qua phải mất ba ngày đường.
              1.2/ Thời gian khẩn cấp: Ông Jonah bắt đầu vào thành, đi một ngày đường và công bố: “Còn bốn mươi ngày nữa!” Hậu quả xảy ra: “Nineveh sẽ bị phá đổ.” Khi nghe tin này, “Dân Nineveh tin vào Thiên Chúa, họ công bố lệnh ăn chay và mặc áo vải thô, từ người lớn đến trẻ nhỏ. Tin báo đến cho Nineveh Vua Nineveh; vua rời khỏi ngai, cởi áo choàng, khoác áo vải thô, và ngồi trên tro. Vua cho rao tại Nineveh: "Do sắc chỉ của đức vua và các quan đại thần, người và súc vật, bò bê và chiên dê không được nếm bất cứ cái gì, không được ăn cỏ, không được uống nước. Người và súc vật phải khoác áo vải thô và hết sức kêu cầu Thiên Chúa. Mỗi người phải trở lại, bỏ đường gian ác và những hành vi bạo lực của mình. Biết đâu Thiên Chúa chẳng nghĩ lại, chẳng bỏ ý định giáng phạt, và nguôi cơn thịnh nộ, khiến chúng ta khỏi phải chết."
            Thiên Chúa thấy việc họ làm, thấy họ bỏ đường gian ác mà trở lại, Người đình chỉ về tai hoạ Người đã tuyên bố sẽ giáng trên họ, Người đã không giáng xuống nữa.

2/ Bài đọc IIThời gian quá ngắn ngủi … Vì bộ mặt thế gian này đang biến đi.
            Có lẽ Thánh Phaolô viết Thư này khi ngài tin tưởng Ngày Chúa Quang Lâm đã gần kề, nên các tín hữu hãy dồn hết nỗ lực chuẩn bị cho Ngày Chúa Quang Lâm. Tuy nhiên, đọan văn này cũng có giá trị của nó, cho dẫu Ngày Chúa Quang Lâm chưa tới. Thánh nhân khuyên:
             (1) Người có vợ hãy sống như không có: Vợ chồng là chuyện hệ trọng khi con người còn sống trong thế gian mà thôi; một khi con người về với Chúa, chuyện vợ chồng không còn cần thiết nữa. Chúa Giêsu cũng dạy cho con người biết như thế, khi người ta hỏi Ngài: Trong Ngày Quang Lâm, ai sẽ là chồng của người phụ nữ nếu cả 7 anh em đều kết hôn với người phụ nữ khi còn sống? Chúa trả lời: “Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng” (Lk 20:34-35, Mt 22:30).
            Xã hội chúng ta đang sống có khuynh hướng quá chú trọng đến chuyện vợ chồng, và tìm đủ mọi cách để quảng cáo và đề cao nó. Họ quên đi điều quan trọng hơn là làm sao đạt được mục đích của đời người. Ngay cả trong đời sống gia đình, chuyện hai người yêu thương nâng đỡ nhau phần linh hồn trong cuộc đời còn quan trọng hơn những liên hệ vợ chồng phần xác thịt.
            (2) Ai khóc lóc, hãy làm như không khóc; ai vui mừng, như chẳng mừng vui: Cảm xúc vui buồn cũng là những cảm xúc nhất thời, đến rồi đi. Con người đừng đặt quá nhiều chú ý đến cả việc tìm vui lẫn nỗi lo sợ phải u buồn. Mối phúc thứ ba của Bát Phúc còn nhấn mạnh: “Phúc cho ai khóc lóc vì họ sẽ được yên ủi.”
            Con người thời đại, nhất là giới trẻ hôm nay quá chú trọng đến những party hội hè. Họ sợ cô đơn thinh lặng một mình; họ chực sẵn điện thọai, chỉ chờ khi nào nghe tiếng gọi đến party là đi. Họ quên đi một điều là “tiệc vui nào rồi cũng có lúc tàn.” Họ không thể party cả ngày và đêm, sức khỏe con người có giới hạn, sớm muộn rồi họ cũng phải đối diện với con người thật của mình. Hơn nữa, sự thinh lặng sẽ giúp con người thư giãn bình an; thời giờ để tìm hiểu học hỏi sẽ giúp con người biết nhận ra những giá trị đích thực của cuộc đời.
            (3) Ai mua sắm, hãy làm như không có gì cả: Mua sắm là khi con người cần đến những gì mình không có; không phải để tích trữ những gì lỡ ra mình cần đến. Con người hôm nay hầu như không còn hiểu thế nào là cuộc sống đơn giản để đừng làm nô lệ cho vật chất. Những nguy hiểm của thái độ mua sắm hôm nay:
            - Thấy người khác có, mình cũng phải có, hay phải có thứ sang hơn: Mỗi tuần rủ bạn bè đến nhà mình, hay đi party nhà bạn bè, là lúc để so sánh tài sản của nhau. Nếu thấy mình thua kém bạn bè, sẽ tìm mọi cách cho bằng hay hơn nữa; nhiều khi mua mà chẳng nghĩ mình có cần xử dụng nó hay không. Một cuộc chạy đua như thế sẽ làm giàu cho giới con buôn; và làm cho con người càng ngày càng trở nên nô lệ cho vật chất: muốn có tiền mua phải kéo cày, cày ngày không đủ tranh thủ cày đêm; cho đến ngày con người sẽ sáng mắt ra nhìn thấy: hạnh phúc không tùy thuộc những gì con người có, nhưng trong những gì con người là.
            - Mua hàng on sale: Mua sắm đã trở thành thú giải trí: một cuộc đấu trí giữa con buôn và khách hàng. Khi hàng mới ra, con buôn ra giá kinh hồn; mục đích là để cho khách hàng biết giá trị của món hàng. Khi nào hàng đã lỗi thời, họ bán với giá thấp hơn hay giá vốn; lúc đó khách hàng vui mừng vì mua được giá chỉ còn một nửa. Họ có biết đâu, nhiều khi đó mới là giá trị thật của món hàng.
            (4) Kẻ hưởng dùng của cải đời này, hãy làm như chẳng hưởng: Của cải vật chất Thiên Chúa dựng nên là để phục vụ con người, không để con người làm nô lệ cho vật chất. Điều rất nguy hiểm cho con người hôm nay là họ không còn chú trọng đến những niềm vui tinh thần nữa, chỉ còn chú trọng đến những thú vui vật chất. Ví dụ, nghỉ hè là dịp để thân xác được nghỉ ngơi và tinh thần được thư giãn. Để đạt được 2 mục đích này, nhiều khi con người chỉ cần đi cắm trại trong rừng vài ngày, cảnh trí thiên nhiên và bầu khí thinh lặng sẽ giúp con người dễ nâng tâm hồn lên tới Thiên Chúa. Ngược lại, có nhiều người nghĩ nghỉ hè là phải đi chơi xa, phải tốn tiền để mua những tiện nghi hưởng thụ; nhiều khi phải tiêu quá nhiều tiền và tốn quá nhiều thời giờ, làm con người càng lo lắng và mệt mỏi hơn là lúc chưa đi nghỉ.

3/ Phúc ÂmLập tức các ông bỏ chài lưới mà đi theo Người.      
            3.1/ Chúa Giêsu rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa: Tin Mừng này gói ghém trong 3 điều chính sau đây:
            (1) Thời kỳ đã mãn: Lịch sử Cựu Ước là một chuỗi những thời gian để chuẩn bị cho Đấng Messiah ra đời. Các Tiên-tri đã loan báo những điều này và chuẩn bị dân chúng để đón mừng Ngài. Qua lời rao giảng của Chúa Giêsu hôm nay, Ngài muốn nói cho mọi người biết: thời gian chuẩn bị và chờ đợi đã hết, Ngài chính là Đấng Messiah mà muôn dân đang mong đợi.
            (2) Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần: Truyền thống Do-Thái tin: Khi Đấng Messiah tới, Ngài sẽ thiết lập triều đại của Thiên Chúa. Chính Ngài sẽ là Vua cai trị mọi người và dẫn đưa mọi người về với Thiên Chúa. Chúa Giêsu muốn họ hiểu: khi Ngài đến, triều đại Thiên Chúa bắt đầu.
            (3) Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng: Phần con người, để được hưởng những gì Thiên Chúa hứa, họ phải ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng Đức Kitô rao giảng.
              3.2/ Chúa Giêsu gọi 4 môn đệ đầu tiên: Để Tin Mừng được lan rộng đến mọi người, Chúa Giêsu mời gọi những môn đệ đầu tiên để huấn luyện họ:
            (1) Simon và Anrê: Thấy các ông đang quăng lưới xuống biển, vì họ làm nghề đánh cá, Chúa Giêsu mời gọi: "Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá." Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người.
            (2) Giacôbê và Gioan: Đi xa hơn một chút, Người thấy ông Giacôbê, con ông Zebedee, và người em là ông Gioan. Hai ông này đang vá lưới ở trong thuyền. Người liền gọi các ông. Và các ông bỏ cha mình là ông Zebedee ở lại trên thuyền với những người làm công, mà đi theo Người.
            Phản ứng mau lẹ và dứt khóat của các ông chứng tỏ các ông đã nhận ra tầm quan trọng của việc rao giảng Tin Mừng và thời gian cấp bách đòi hỏi. 

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
            - Đời người chúng ta chỉ giới hạn trong một thời gian ngắn. Hãy tìm ra mục đích cuộc đời và cố gắng sống làm sao để đạt được mục đích đó.
            - Thiên Chúa dựng nên mọi sự trong trời đất là vì yêu thương con người, và Ngài đặt muôn sự dưới chân con người. Tôn thờ vật chất như một vị thần là đi ngược lại với ý định của Thiên Chúa.
            - Chinh phục linh hồn con người về cho Thiên Chúa quí trọng hơn tìm kiếm của cải vật chất. Chúng ta hãy mau mắn cộng tác với tiếng gọi của Thiên Chúa để làm việc trong cánh đồng truyền giáo.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP
****************


TIN MỪNG HẰNG NGÀY

Chủ Nhật III Thường Niên, Năm B
Bài đọcJon 3:1-5, 10; I Cor 7:29-31; Mk 1:14-20

1/ Bài đọc I:
1 Có lời ĐỨC CHÚA phán với ông Giô-na lần thứ hai rằng:2 "Hãy đứng dậy, đi đến Ni-ni-vê, thành phố lớn, và hô cho dân thành biết lời tuyên cáo Ta sẽ truyền cho ngươi."
3 Ông Giô-na đứng dậy và đi Ni-ni-vê, như lời ĐỨC CHÚA phán. Ni-ni-vê là một thành phố cực kỳ rộng lớn, đi ngang qua phải mất ba ngày đường.
4 Ông Giô-na bắt đầu vào thành, đi một ngày đường và công bố: "Còn bốn mươi ngày nữa, Ni-ni-vê sẽ bị phá đổ."
5 Dân Ni-ni-vê tin vào Thiên Chúa, họ công bố lệnh ăn chay và mặc áo vải thô, từ người lớn đến trẻ nhỏ.
10 Thiên Chúa thấy việc họ làm, thấy họ bỏ đường gian ác mà trở lại, Người hối tiếc về tai hoạ Người đã tuyên bố sẽ giáng trên họ, Người đã không giáng xuống nữa.
2/ Bài đọc II:
29 Thưa anh em, tôi xin nói với anh em điều này: thời gian chẳng còn bao lâu. Vậy từ nay những người có vợ hãy sống như không có;30 ai khóc lóc, hãy làm như không khóc; ai vui mừng, như chẳng mừng vui; ai mua sắm, hãy làm như không có gì cả;31 kẻ hưởng dùng của cải đời này, hãy làm như chẳng hưởng. Vì bộ mặt thế gian này đang biến đi. 
3/ Phúc Âm:
14 Sau khi ông Gio-an bị nộp, Đức Giê-su đến miền Ga-li-lê rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa.15 Người nói: "Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng."16 Người đang đi dọc theo biển hồ Ga-li-lê, thì thấy ông Si-môn với người anh là ông An-rê, đang quăng lưới xuống biển, vì họ làm nghề đánh cá.17 Người bảo họ: "Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá."18 Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người.19 Đi xa hơn một chút, Người thấy ông Gia-cô-bê, con ông Dê-bê-đê, và người em là ông Gio-an. Hai ông này đang vá lưới ở trong thuyền.20 Người liền gọi các ông. Và các ông bỏ cha mình là ông Dê-bê-đê ở lại trên thuyền với những người làm công, mà đi theo Người. 

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Thời kỳ đã mãn, hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.
             Thời gian có sức biến đổi con người trở nên tốt hay xấu hơn. Nếu biết dùng thời gian mà nắm lấy cơ hội, con người sẽ đạt được kết quả mong muốn; nếu không biết nắm lấy thời gian, cơ hội qua đi, con người phải gánh chịu mọi hậu quả xấu, ngay cả cái chết.
            Các Bài Đọc hôm nay đều chỉ cho thấy sự thúc đẩy nghiêm trọng của thời gian. Trong Bài Đọc I, Thiên Chúa truyền cho Tiên-tri Jonah phải đi rao giảng cho dân Thành Nineveh biết cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống trên họ. Tiên tri mua vé tàu qua Tarshish, với hy vọng có thể trốn khỏi thiên nhan Đức Chúa. Hậu quả xảy ra là ông bị ném xuống biển. May phước cho ông là được thóat chết. Thiên Chúa truyền lần thứ hai, lần này ông vâng lệnh đi rao giảng. Dân Thành Nineveh tin vào sứ điệp ông rao giảng. Họ tuyên bố thời gian chay tịnh trên tòan nước: vua cũng như dân, từ con người đến súc vật, với hy vọng Thiên Chúa sẽ đình chỉ những hình phạt mà Ngài sắp giáng xuống trên họ. Hy vọng của họ được Thiên Chúa nhận lời. Trong Bài Đọc II, Thánh Phaolô cũng khuyên các tín hữu Corintô: Vì thời gian chẳng còn bao lâu nữa là đến Ngày Chúa Quang Lâm, mọi người hãy chú trọng đến những giá trị vĩnh cửu đời sau, đừng quá chú trọng đến những giá trị đời này; hãy dùng chúng như không hưởng thụ, vì bộ mặt của thế gian đang qua đi. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu loan truyền sứ điệp: "Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng."  
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc IDân Nineveh tin vào Thiên Chúa.
             1.1/ Đức Chúa phán với ông Jonah lần thứ hai: Điều này giả sử phải có lần thứ nhất.

            (1) Đức Chúa phán với Jonah lần thứ nhất: "Hãy đứng dậy, đi đến Nineveh, thành phố lớn, và hô cho dân thành biết rằng sự gian ác của chúng đã lên thấu tới Ta." Ông Jonah đứng dậy nhưng là để trốn đi Tarshish, tránh nhan Đức Chúa. Ông xuống Joppa và tìm được một chiếc tàu sắp đi Tarshish. Ông trả tiền, xuống tàu để cùng đi Tarshish với họ, để tránh nhan Đức Chúa. Lý do ông bất tuân lệnh Thiên Chúa là vì ông ghét người ngọai bang, nhất là người Babylon, người mà Chúa truyền cho ông đi tới. Hậu quả là thuyền ông bị đắm, ông bị thủy thủ quăng xuống biển, và bị một con cá voi lớn táp. Như một phép lạ, ông ở trong bụng cá 3 ngày 3 đêm, ông tha thiết cầu nguyện với Thiên Chúa, Ngài đã nhận lời và làm cho cá vào bờ và nhả ông ra (Joh 1:1- 2:11).
            (2) Đức Chúa phán với Jonah lần thứ hai: "Hãy đứng dậy, đi đến Nineveh, thành phố lớn, và hô cho dân thành biết lời tuyên cáo Ta sẽ truyền cho ngươi." Có kinh nghiệm lần trước, ông Jonah không dám bất tuân, ông đứng dậy và đi Nineveh, như lời Đức Chúa phán. Nineveh là một thành phố cực kỳ rộng lớn, đi ngang qua phải mất ba ngày đường.
              1.2/ Thời gian khẩn cấp: Ông Jonah bắt đầu vào thành, đi một ngày đường và công bố: “Còn bốn mươi ngày nữa!” Hậu quả xảy ra: “Nineveh sẽ bị phá đổ.” Khi nghe tin này, “Dân Nineveh tin vào Thiên Chúa, họ công bố lệnh ăn chay và mặc áo vải thô, từ người lớn đến trẻ nhỏ. Tin báo đến cho Nineveh Vua Nineveh; vua rời khỏi ngai, cởi áo choàng, khoác áo vải thô, và ngồi trên tro. Vua cho rao tại Nineveh: "Do sắc chỉ của đức vua và các quan đại thần, người và súc vật, bò bê và chiên dê không được nếm bất cứ cái gì, không được ăn cỏ, không được uống nước. Người và súc vật phải khoác áo vải thô và hết sức kêu cầu Thiên Chúa. Mỗi người phải trở lại, bỏ đường gian ác và những hành vi bạo lực của mình. Biết đâu Thiên Chúa chẳng nghĩ lại, chẳng bỏ ý định giáng phạt, và nguôi cơn thịnh nộ, khiến chúng ta khỏi phải chết."
            Thiên Chúa thấy việc họ làm, thấy họ bỏ đường gian ác mà trở lại, Người đình chỉ về tai hoạ Người đã tuyên bố sẽ giáng trên họ, Người đã không giáng xuống nữa.

2/ Bài đọc IIThời gian quá ngắn ngủi … Vì bộ mặt thế gian này đang biến đi.
            Có lẽ Thánh Phaolô viết Thư này khi ngài tin tưởng Ngày Chúa Quang Lâm đã gần kề, nên các tín hữu hãy dồn hết nỗ lực chuẩn bị cho Ngày Chúa Quang Lâm. Tuy nhiên, đọan văn này cũng có giá trị của nó, cho dẫu Ngày Chúa Quang Lâm chưa tới. Thánh nhân khuyên:
             (1) Người có vợ hãy sống như không có: Vợ chồng là chuyện hệ trọng khi con người còn sống trong thế gian mà thôi; một khi con người về với Chúa, chuyện vợ chồng không còn cần thiết nữa. Chúa Giêsu cũng dạy cho con người biết như thế, khi người ta hỏi Ngài: Trong Ngày Quang Lâm, ai sẽ là chồng của người phụ nữ nếu cả 7 anh em đều kết hôn với người phụ nữ khi còn sống? Chúa trả lời: “Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng” (Lk 20:34-35, Mt 22:30).
            Xã hội chúng ta đang sống có khuynh hướng quá chú trọng đến chuyện vợ chồng, và tìm đủ mọi cách để quảng cáo và đề cao nó. Họ quên đi điều quan trọng hơn là làm sao đạt được mục đích của đời người. Ngay cả trong đời sống gia đình, chuyện hai người yêu thương nâng đỡ nhau phần linh hồn trong cuộc đời còn quan trọng hơn những liên hệ vợ chồng phần xác thịt.
            (2) Ai khóc lóc, hãy làm như không khóc; ai vui mừng, như chẳng mừng vui: Cảm xúc vui buồn cũng là những cảm xúc nhất thời, đến rồi đi. Con người đừng đặt quá nhiều chú ý đến cả việc tìm vui lẫn nỗi lo sợ phải u buồn. Mối phúc thứ ba của Bát Phúc còn nhấn mạnh: “Phúc cho ai khóc lóc vì họ sẽ được yên ủi.”
            Con người thời đại, nhất là giới trẻ hôm nay quá chú trọng đến những party hội hè. Họ sợ cô đơn thinh lặng một mình; họ chực sẵn điện thọai, chỉ chờ khi nào nghe tiếng gọi đến party là đi. Họ quên đi một điều là “tiệc vui nào rồi cũng có lúc tàn.” Họ không thể party cả ngày và đêm, sức khỏe con người có giới hạn, sớm muộn rồi họ cũng phải đối diện với con người thật của mình. Hơn nữa, sự thinh lặng sẽ giúp con người thư giãn bình an; thời giờ để tìm hiểu học hỏi sẽ giúp con người biết nhận ra những giá trị đích thực của cuộc đời.
            (3) Ai mua sắm, hãy làm như không có gì cả: Mua sắm là khi con người cần đến những gì mình không có; không phải để tích trữ những gì lỡ ra mình cần đến. Con người hôm nay hầu như không còn hiểu thế nào là cuộc sống đơn giản để đừng làm nô lệ cho vật chất. Những nguy hiểm của thái độ mua sắm hôm nay:
            - Thấy người khác có, mình cũng phải có, hay phải có thứ sang hơn: Mỗi tuần rủ bạn bè đến nhà mình, hay đi party nhà bạn bè, là lúc để so sánh tài sản của nhau. Nếu thấy mình thua kém bạn bè, sẽ tìm mọi cách cho bằng hay hơn nữa; nhiều khi mua mà chẳng nghĩ mình có cần xử dụng nó hay không. Một cuộc chạy đua như thế sẽ làm giàu cho giới con buôn; và làm cho con người càng ngày càng trở nên nô lệ cho vật chất: muốn có tiền mua phải kéo cày, cày ngày không đủ tranh thủ cày đêm; cho đến ngày con người sẽ sáng mắt ra nhìn thấy: hạnh phúc không tùy thuộc những gì con người có, nhưng trong những gì con người là.
            - Mua hàng on sale: Mua sắm đã trở thành thú giải trí: một cuộc đấu trí giữa con buôn và khách hàng. Khi hàng mới ra, con buôn ra giá kinh hồn; mục đích là để cho khách hàng biết giá trị của món hàng. Khi nào hàng đã lỗi thời, họ bán với giá thấp hơn hay giá vốn; lúc đó khách hàng vui mừng vì mua được giá chỉ còn một nửa. Họ có biết đâu, nhiều khi đó mới là giá trị thật của món hàng.
            (4) Kẻ hưởng dùng của cải đời này, hãy làm như chẳng hưởng: Của cải vật chất Thiên Chúa dựng nên là để phục vụ con người, không để con người làm nô lệ cho vật chất. Điều rất nguy hiểm cho con người hôm nay là họ không còn chú trọng đến những niềm vui tinh thần nữa, chỉ còn chú trọng đến những thú vui vật chất. Ví dụ, nghỉ hè là dịp để thân xác được nghỉ ngơi và tinh thần được thư giãn. Để đạt được 2 mục đích này, nhiều khi con người chỉ cần đi cắm trại trong rừng vài ngày, cảnh trí thiên nhiên và bầu khí thinh lặng sẽ giúp con người dễ nâng tâm hồn lên tới Thiên Chúa. Ngược lại, có nhiều người nghĩ nghỉ hè là phải đi chơi xa, phải tốn tiền để mua những tiện nghi hưởng thụ; nhiều khi phải tiêu quá nhiều tiền và tốn quá nhiều thời giờ, làm con người càng lo lắng và mệt mỏi hơn là lúc chưa đi nghỉ.

3/ Phúc ÂmLập tức các ông bỏ chài lưới mà đi theo Người.      
            3.1/ Chúa Giêsu rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa: Tin Mừng này gói ghém trong 3 điều chính sau đây:
            (1) Thời kỳ đã mãn: Lịch sử Cựu Ước là một chuỗi những thời gian để chuẩn bị cho Đấng Messiah ra đời. Các Tiên-tri đã loan báo những điều này và chuẩn bị dân chúng để đón mừng Ngài. Qua lời rao giảng của Chúa Giêsu hôm nay, Ngài muốn nói cho mọi người biết: thời gian chuẩn bị và chờ đợi đã hết, Ngài chính là Đấng Messiah mà muôn dân đang mong đợi.
            (2) Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần: Truyền thống Do-Thái tin: Khi Đấng Messiah tới, Ngài sẽ thiết lập triều đại của Thiên Chúa. Chính Ngài sẽ là Vua cai trị mọi người và dẫn đưa mọi người về với Thiên Chúa. Chúa Giêsu muốn họ hiểu: khi Ngài đến, triều đại Thiên Chúa bắt đầu.
            (3) Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng: Phần con người, để được hưởng những gì Thiên Chúa hứa, họ phải ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng Đức Kitô rao giảng.
              3.2/ Chúa Giêsu gọi 4 môn đệ đầu tiên: Để Tin Mừng được lan rộng đến mọi người, Chúa Giêsu mời gọi những môn đệ đầu tiên để huấn luyện họ:
            (1) Simon và Anrê: Thấy các ông đang quăng lưới xuống biển, vì họ làm nghề đánh cá, Chúa Giêsu mời gọi: "Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá." Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người.
            (2) Giacôbê và Gioan: Đi xa hơn một chút, Người thấy ông Giacôbê, con ông Zebedee, và người em là ông Gioan. Hai ông này đang vá lưới ở trong thuyền. Người liền gọi các ông. Và các ông bỏ cha mình là ông Zebedee ở lại trên thuyền với những người làm công, mà đi theo Người.
            Phản ứng mau lẹ và dứt khóat của các ông chứng tỏ các ông đã nhận ra tầm quan trọng của việc rao giảng Tin Mừng và thời gian cấp bách đòi hỏi. 

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
            - Đời người chúng ta chỉ giới hạn trong một thời gian ngắn. Hãy tìm ra mục đích cuộc đời và cố gắng sống làm sao để đạt được mục đích đó.
            - Thiên Chúa dựng nên mọi sự trong trời đất là vì yêu thương con người, và Ngài đặt muôn sự dưới chân con người. Tôn thờ vật chất như một vị thần là đi ngược lại với ý định của Thiên Chúa.
            - Chinh phục linh hồn con người về cho Thiên Chúa quí trọng hơn tìm kiếm của cải vật chất. Chúng ta hãy mau mắn cộng tác với tiếng gọi của Thiên Chúa để làm việc trong cánh đồng truyền giáo.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP
****************


TIN VATICAN ĐỂ HIỆP NHẤT KITO HỮU...THỨ BẢY 21/1/2012

Để hiệp nhất mọi Kitô hữu phải hoán cải nội tâm
T6, 20/01/2012 - 11:14
Sự hiệp nhất trọn vẹn và hữu hình giữa các tín hữu Kitô đòi buộc chúng ta phải hoán cải nội tâm trên bình diện cá nhân cũng như cộng đoàn, và để cho mình được biến đổi và ngày càng phù hợp cách toàn thiện hơn với hình ảnh của Chúa Kitô.
Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã khẳng định như trên trước 8.000 tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi tiếp kiến chung sáng thứ Tư hàng tuần hôm 18-1-2012 trong đại thính đường Phaolô VI. Vì Giáo hội đã bắt đầu tuần cầu nguyện cho sự hiệp nhất các tín hữu Kitô nên trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã duyệt lại lịch sử và ý nghĩa của tuần cầu nguyện này. Ngài nói:
Thói quen của Tuần cầu nguyện cho sự hiệp nhất các Kitô hữu đã được đưa ra vào năm 1908, bởi cha Paul Wattson, sáng lập viên một cộng đoàn dòng tu Anh giáo, sau đó gia nhập Giáo hội Công giáo. Sáng kiến này đã được Đức Giáo Hoàng Piô X chúc lành và được Đức Giáo Hoàng Biển Đức XV thăng tiến và khuyến khích cử hành trong toàn Giáo hội Công giáo với Tông thư Romanorum Pontificum công bố ngày 25 tháng 2 năm 1916.
Tuần cầu nguyện đã được khai triển và hoàn bị trong thập niêm 1930 của thế kỷ vừa qua bởi linh mục Paul Couturier tỉnh Lyon, là người đã ủng hộ việc cầu nguyện “cho sự hiệp nhất Giáo hội như Chúa Kitô muốn và phù hợp với các dụng cụ mà Người muốn”. Trong các bút tích của mình cha Couturier coi Tuần cầu nguyện là một phương thế giúp lời cầu phổ quát của Chúa Kitô “bước sâu vào trong toàn Thân mình Kitô”; nó phải lớn lên và trở thành một “tiếng kêu đồng nhất mênh mông của toàn Dân Chúa” nài xin Chúa ơn trọng đại đó.
Tuần cầu nguyện cho hiệp nhất được Công đồng chung Vaticăng II thúc đẩy là một trong các diễn tả hữu hiệu nhất nỗ lực tìm về sự hiệp thông trọn vẹn giữa các môn đệ của Chúa Kitô. Cuộc hẹn hò tinh thần hiệp nhất các Kitô hữu thuộc mọi truyền thống với nhau, gia tăng ý thức rằng sự hiệp thông không chỉ là kết quả các nỗ lực của chúng ta, mà đúng hơn là một ơn trên.
Tiếp tục bài huấn dụ, Đức Thánh Cha cho biết hằng năm Tuần cầu nguyện được một nhóm đại kết của một vùng trên thế giới chuẩn bị. Năm nay các văn bản do một nhóm đại diện Giáo hội Công giáo và Hội đồng đại kết các Giáo hội Kitô Ba Lan đề nghị. Sau đó tài liệu được duyệt lại bởi một ủy ban gồm các thành viên Hội đồng Tòa Thánh hiệp nhất các tín hữu Kitô và Ủy ban Đức tin và Hiến chế của Hội đồng Đại kết các Giáo hội Kitô. Công việc gồm hai giai đoạn này cũng diễn tả ý thức lời cầu nguyện là con đường đầu tiên giúp đạt sự hiệp thông trọn vẹn. Đề tài năm nay lấy từ thư thứ I gửi tín hữu Côrintô: “Tất cả chúng ta sẽ được biến đổi bởi chiến thắng của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (x. 1 Cr 15,51-58). Đề tài do một nhóm đại kết Kitô Ba Lan đề nghị muốn nêu bật sức mạnh sự nâng đỡ của đức tin Kitô giữa các thử thách và đảo lộn của cuộc sống, như trong trường hợp của lịch sử Ba Lan.
Đức tin nơi Chúa Kitô có sức mạnh biến đổi mọi sự, đặc biệt dưới ánh sáng tầm quan trọng của nó đối với lời cầu nguyện cho sự hiệp nhất hữu hình của Giáo hội, Thân Mình của Chúa Kitô. Ngỏ lời với tín hữu giáo đoàn Côrintô thánh Phaolô nói tới bản chất tạm thời của những gì thuộc cuộc sống hiện tại của chúng ta, ghi dấu bởi kinh nghiệm thất bại của tội lỗi và cái chết, đối đầu với những gì được đem lại cho chúng ta bởi chiến thắng của Chúa Kitô trên tội lỗi và cái chết trong Mầu Nhiệm phục sinh của Người.
Lịch sử dân nước Ba Lan đã có một giai đoạn sống dân chủ và tự do tôn giáo trong thế kỷ XVI, nhưng trong các thế kỷ tiếp theo đã bị ghi dấu bởi các cuộc xâm lăng và thua trận, nhưng cũng được ghi dấu bởi cuộc chiến đấu liên lỉ vì khát khao tự do chống lại áp bức. Tất cả đã khiến cho nhóm đại kết suy tư về ý nghĩa sâu xa của “chiến thắng” và “thất bại”. Trái với ý nghĩa đắc thắng huyênh hoang, Chúa Kitô gợi lên cho chúng ta một con đường khác: chiến thăng của Người không đi ngang qua uy quyền và sức mạnh. Chính Người đã khẳng định: “Ai muốn là người trên hết phải là người rốt hết trong các con và là kẻ phục vụ mọi người” (Mc 9,35). Đức Thánh Cha đã quảng diễn điểm này như sau:
Chúa Kitô nói tới một chiến thắng đối với tình yêu khổ đau, đối với việc phục vụ nhau, sự trợ giúp, niềm hy vọng mới, và việc an ủi cụ thể những người rốt hết, những người bị quên lãng, bị khước từ. Đối với tất cả mọi Kitô hữu kiểu diễn tả tột đỉnh sự phục vụ khiêm tốn ấy là chính Chúa Giêsu Kitô. Sự hiến dâng hoàn toàn chính Người, chiến thắng tình yêu của Người trên cái chết trên thập giá, chiếu tỏa rạng ngời buổi sáng ngày phục sinh. Chúng ta có thể tham dự vào “chiến thắng” biến đổi ấy, nếu chúng ta để cho mình được Thiên Chúa biến đổi. Chỉ khi chúng ta thực hiệm một sự hoán cải cuộc sống, thì sự biển đổi được thực hiện trong hình thức hoán cải.
Sự hiệp nhất tràn đầy và hữu hình của các tín hữu Kitô mà chúng ta mong mỏi, đòi buộc chúng ta để cho mình được thay đổi và ngày càng đồng hình đạng một cách hoàn thiện hơn với hình ảnh của Chúa Kitô. Sự hiệp nhất mà chúng ta cầu xin đòi buộc một sự hoán cải nội tâm, cá nhân cũng cũng như cộng đoàn. Đây không chỉ đơn thuần là sự thân thiện hay cộng tác, mà cần phải củng cố đức tin nơi Thiên Chúa, nơi Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô, là Đấng đã nói với chúng ta và trở nên một người như chúng ta; cần phải bước vào trong cuộc sống mới trong Chúa Kitô, Đấng là chiến thắng vĩnh viễn đích thực của chúng ta; cần phải rộng mở cho nhau, bằng cách tiếp đón tất cả các yếu tố hiệp nhất mà Thiên Chúa đã duy trì cho chúng ta và luôn trao ban cho chúng ta một cách mời mẻ; cần phải cảm thấy sự cấp thiết làm chứng cho con người thời đại biết Thiên Chúa hằng sống, Đấng đã khiến cho mình đươc hiểu biết nơi Đức Kitô.
Đức Thánh Cha nói thêm trong bài huấn dụ: Công Đồng Chung Vaticăng II đã đặt việc tìm kiếm đại kết vào trung tâm cuộc sống và hoạt động của Giáo hội và thúc đẩy mọi tín hữu Công giáo nhận ra các dấu chỉ thời đại và hăng hái tham gia vào công cuộc đại kết (Unitatis redintegratio, 4). Và Đức Chân phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nhấn mạnh bản chất và tầm quan trọng của dấn thân đó trong Thông điệp Ut unum sint. Sự hiệp nhất giữa các tín hữu Kitô không phải là điều phụ thuộc, mà là trung tâm hoạt động của Giáo hội. Nó không phải là một đóng góp thứ yếu của cộng đoàn các môn đệ, mà là bản chất của cộng đoàn (Ut unum sint, 9).
Như thế, nhiệm vụ đại kết là một trách nhiệm của toàn thể Giáo hội, và mọi tín hữu đã được rửa tội phải làm cho sự hiệp thông đã có giữa các tín hữu Kitô lớn lên cho tới sự hiệp thông trọn vẹn trong sự thật và trong chân lý. Vì thế, lời cầu nguyện cho sự hiệp nhất không chỉ thu hẹp trong Tuần cầu nguyện, mà phải trở thành phần của cuộc sống cầu nguyện của mọi Kitô hữu, trong mọi nơi và mọi lúc, đặc biệt khi tín hữu các truyền thống khác nhau gặp gỡ và làm việc chung với nhau cho chiến thắng của Chúa Kitô, trên tất cả những gì là tội lỗi, sự dữ, bất công và vi phạm phẩm giá con người.
Kết thúc bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói:
Từ khi phong trào đại kết tân tiến nảy sinh cách đây hơn một thế kỷ, đã luôn luôn có ý thức về sự kiện thiếu hiệp nhất giữa các tín hữu Kitô ngăn cản việc loan báo Tin Mừng một cách hữu hiệu, vì nó phá hủy hay gây nguy hại cho sự đáng tin cậy của chúng ta. Làm sao chúng ta có thể làm chứng một cách thuyết phục, nếu chúng ta chia rẽ nhau? Liên quan tới các chân lý nền tảng của đức tin chắc chắn điều hiệp nhất chúng ta lớn hơn điều chia rẽ chúng ta. Nhưng các chia rẽ còn đó, và chúng liên quan tới các vấn đề thực hành và luân lý khác nhau, gây ra lẫn lộn và nghi ngờ, làm suy yếu khả năng thông truyền Lời cứu độ của Chúa Kitô. Trong nghĩa này, chúng ta phải nhớ tới lời Chân phước Gioan Phaolô II nói về sự tai hại do sự thiếu hiệp nhất gây ra cho chứng tá Kitô và việc loan báo Tin Mừng (Ut unum sint, 98,99). Đây là một thách đố đối với việc tái truyền giảng Tin Mừng. Việc tai rao giảng Tin Mừng sẽ phong phú hơn, nếu tất cả mọi tín hữu Kitô cùng loan báo sự thật Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô, và đưa ra câu trả lời chung cho cơn khát tinh thần của thời đại chúng ta... Con đường của Giáo hội cũng như của các dân tộc nằm trong tay Chúa Kitô phục sinh. Người cho chúng ta tham dự vào chiến thắng của Người. Chỉ Người có khả năng biến đổi chúng ta và khiến cho chúng ta từ yếu duối và lưỡng lự trở thành mạnh mẽ và can đảm làm vịệc thiện. Chỉ Người có thể cứu chúng ta khỏi các hậu quả tiêu cực của các chia rẽ.
Đức Thánh Cha đã chào tín hữu bằng nhiều thứ tiếng khác nhau. Ngài mời gọi tất cả sốt sắng cầu nguyện cho sự hiệp nhất các Kitô hữu. Sau cùng Đức Thánh Cha cất kinh Lạy Cha và ban phép lành Tòa Thánh cho mọi người.
Nguồn: 
 vietvatican

VIDEO LOI SỐNG HẰNG NGÀY SỰ ĐIÊN DAI VÌ LÒNG MẾN THỨ BẢY 21/1/2012


TIN MỪNG HẰNG NGÀY THỨ NĂM 21/1/2012


Thứ Bảy, Tuần II TN2
Bài đọcHeb 9:2-3, 11-14; II Sam 1:1-4, 11-12, 19, 23-27; Mk 3:20-21.
1/ Bài đọc I (năm lẻ):
2 Quả thật, một cái lều, cái lều thứ nhất, đã được dựng lên; lều này được gọi là Nơi Thánh, có cây đèn bảy ngọn, có bàn và bánh dâng tiến.
3 Đằng sau bức màn thứ hai, có một cái lều gọi là Nơi Cực Thánh.
11 Nhưng Đức Ki-tô đã đến làm Thượng Tế đem phúc lộc của thế giới tương lai. Để vào cung thánh, Người đã đi qua một cái lều lớn hơn và hoàn hảo hơn, không do bàn tay con người làm nên, nghĩa là không thuộc về thế giới thọ tạo này.
12 Người đã vào cung thánh không phải với máu các con dê, con bò, nhưng với chính máu của mình, Người vào chỉ một lần thôi, và đã lãnh được ơn cứu chuộc vĩnh viễn cho chúng ta.
13 Vậy nếu máu các con dê, con bò, nếu nước tro của xác bò cái, đem rảy lên mình những kẻ nhiễm uế còn thánh hoá được họ, nghĩa là cho thân xác họ trở nên trong sạch,
14 thì máu của Đức Ki-tô càng hiệu lực hơn biết mấy. Nhờ Thánh Thần hằng hữu thúc đẩy, Đức Ki-tô đã tự hiến tế như lễ vật vẹn toàn dâng lên Thiên Chúa. Máu của Người thanh tẩy lương tâm chúng ta khỏi những việc đưa tới sự chết, để chúng ta xứng đáng phụng thờ Thiên Chúa hằng sống.

2/ Bài đọc I (năm chẵn):
1 Sau khi vua Sa-un chết, ông Đa-vít đánh thắng người A-ma-lếch trở về, và ở lại Xích-lắc hai ngày. 2 Sang ngày thứ ba, có một người từ trại, từ bên vua Sa-un đến, áo quần xé rách, đầu thì rắc đất. Khi đến gần ông Đa-vít, anh ta sấp mình xuống đất và sụp lạy.
3 Ông Đa-vít hỏi anh: "Anh từ đâu đến?" Anh trả lời ông: "Tôi đã chạy thoát từ trại Ít-ra-en."
4 Ông Đa-vít nói với anh: "Chuyện gì đã xảy ra? Kể lại cho tôi đi!" Anh nói: "Dân đã bỏ chiến trường mà chạy trốn; nhiều người trong dân tử trận, cả vua Sa-un và con vua là ông Giô-na-than cũng đã chết."
11 Ông Đa-vít nắm lấy áo mình mà xé ra, tất cả những người ở với ông cũng vậy.
12 Họ cử hành tang lễ, khóc lóc và ăn chay cho đến chiều để tỏ lòng thương tiếc vua Sa-un và ông Giô-na-than, con vua, thương tiếc dân Đức Chúa và nhà Ít-ra-en, vì những người này đã ngã gục dưới lưỡi gươm.
19 "Hỡi Ít-ra-en, trên các đồi của ngươi, những người con ưu tú đã bỏ mình. Than ôi! Anh hùng nay ngã gục! 23 Sa-un và Giô-na-than, ôi những con người dễ thương, dễ mến,
sống chẳng xa nhau, chết cũng chẳng rời, nhanh hơn chim bằng, mạnh hơn sư tử!
24 Thiếu nữ Ít-ra-en hỡi, hãy khóc Sa-un, người đã mặc cho các cô vải điều lộng lẫy,
đính trên áo các cô đồ trang sức bằng vàng.
25 Than ôi! Các anh hùng đã ngã gục giữa lúc giao tranh! Trên các đồi của ngươi, Giô-na-than đã bỏ mình!
26 Giô-na-than, anh hỡi, lòng tôi se lại vì anh! Tôi thương anh biết mấy!
Tình anh đối với tôi thật diệu kỳ hơn cả tình nhi nữ.
27 Than ôi! Anh hùng nay ngã gục, võ khí đã tan tành!"

3/ Phúc Âm:
20 Người trở về nhà và đám đông lại kéo đến, thành thử Người và các môn đệ không sao ăn uống được. 21 Thân nhân của Người hay tin ấy, liền đi bắt Người, vì họ nói rằng Người đã mất trí.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Phải nhận ra tình yêu vô biên của Thiên Chúa và của tha nhân.

Khi yêu, con người làm những việc bị người khác coi là điên khùng; chẳng hạn, đứng chờ người yêu dưới mưa, hay sẵn sàng chết vì người mình yêu. Nhưng đối với những người đang yêu, họ được thúc đẩy phải biểu lộ để chứng tỏ tình yêu. Chính Chúa Giêsu đã từng rửa chân cho các tông-đồ và căn dặn các ông cũng phải rửa chân cho nhau. Ngài cũng đã nói với các ông: “Không có tình yêu nào lớn lao cho bằng tình của người chết vì yêu.” Ngài không chỉ nói, nhưng đã vác Thập Giá lên đồi Golgotha để chết cho con người, để chứng tỏ tình yêu của Ngài.
Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong việc phải nhận ra những biểu lộ tình yêu qua những hy sinh của Chúa Giêsu và của tha nhân. Trong Bài Đọc I, tác-giả Thư Do-thái so sánh máu của Chúa Giêsu đổ ra để xóa tội cho con người với máu của chiên bò rảy trên con người của Cựu Ước. Nếu máu chiên bò có thể cất đi tội cho con người, huống hồ là máu của Con Thiên Chúa! Trong Bài Đọc I, năm chẵn, David và toàn dân khóc thương vua Saul, con vua là Jonathan, và những người đã tử trận. Tất cả nhớ lại những gì hai cha con và binh lính đã hy sinh xương máu để bảo vệ dân chúng trong suốt cuộc đời. Trong Phúc Âm, vì quá yêu thương dân chúng, Chúa Giêsu và các môn đệ làm việc không ngơi nghỉ đến nỗi không có thời giờ để ăn uống. Thân nhân của Người hay tin ấy, liền đi bắt Người, vì họ nói rằng Người đã mất trí.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I (năm lẻ)Máu của Đức Kitô đổ ra có sức thanh tẩy hiệu quả hơn máu của chiên bò.
1.1/ Lều Hội Ngộ và Lều của Đức Kitô: Sau khi đã so sánh phẩm trật thượng tế và lễ vật hy sinh, tác giả Thư Do-thái muốn so sánh nơi chốn mà thượng tế dâng lễ vật. Lều Hội Ngộ, nơi mà các thượng tế dâng lễ hy sinh trong Ngày Đền Tội mỗi năm, được dựng nên bởi con người theo kiểu mẫu Thiên Chúa mặc khải cho Moses. Lều này chỉ là hình bóng của một thực tại, một cái Lều lớn hơn và hoàn hảo hơn; không do bàn tay con người xây dựng và không thuộc về thế giới này, nhưng do chính Thiên Chúa tạo dựng.
(1) Lều Hội Ngộ: Trong Cựu-Ước, Lều này được cấu trúc theo mô hình mà Thiên Chúa đã mặc khải cho Moses. Tác giả mô tả vắn tắt như sau: “Lều này được gọi là Nơi Thánh, có cây đèn bảy ngọn, có bàn và bánh dâng tiến. Đằng sau bức màn thứ hai, có một cái lều gọi là Nơi Cực Thánh.” Các tư tế có thể vào Nơi Thánh để dâng lễ vật hàng tuần; nhưng chỉ có thượng tế mới được vào Nơi Cực Thánh, mỗi năm một lần, để dâng lễ vật cho mình và cho dân.
(2) Lều lớn và hoàn hảo hơn: “Nhưng Đức Kitô đã đến làm Thượng Tế đem phúc lộc của thế giới tương lai. Để vào cung thánh, Người đã đi qua một cái lều lớn hơn và hoàn hảo hơn, không do bàn tay con người làm nên, nghĩa là không thuộc về thế giới thọ tạo này.” Có học-giả cho rằng, Lều này chính là thân xác Chúa Giêsu, nhưng thân xác Chúa Giêsu được cưu mang và thành hình bởi Đức Mẹ, một con người. Lối giải thích hợp lý hơn cho Lều này chính là con người Chúa Giêsu, kết hợp bởi cả thiên tính và nhân tính, như Thánh Ambrosio nói: “Bàn thờ tượng trưng thân thể Chúa Kitô, và thân thể của Chúa Kitô ở trên bàn thờ” (GLCG trưng Ambrosio, Sacer. 4, 7). Hiểu như thế, Chúa Giêsu vừa là Thượng Tế, vừa là Lễ Hy Sinh, vừa là Bàn Thờ.

1.2/ Máu của Đức Kitô và máu của chiên bò: Tác giả đã so sánh lễ hy sinh của Cựu Ước với Lễ Hy Sinh của Thượng Tế Giêsu; giờ đây, tác giả so sánh về hiệu quả của máu đổ ra của hai lễ hy sinh này. Trong Cựu Ước, máu đổ ra là máu của chiên, dê, bò; trong Tân Ước, máu đổ ra là chính máu của Thượng Tế Giêsu, Người Con của Thiên Chúa. Máu của Đức Kitô đem lại cho con người những hiệu quả sau:
(1) Sự vững bền: Máu súc vật phải đổ mỗi lần con người phạm tội. Máu Đức Kitô đổ một lần là đủ: “Người chỉ đổ máu một lần thôi, và đã lãnh được ơn cứu chuộc vĩnh viễn cho chúng ta.”
(2) Hiệu quả: Theo truyền thống Do-thái, máu súc vật chỉ có thể lấy đi những tội phạm vì vô tình; những tội cố ý phạm, không máu súc vật nào có thể lấy đi được. Máu của Đức Kitô vì là máu của tự nguyện, của yêu thương, của Con Thiên Chúa, có thể tha thứ tất cả các tội: “Vậy nếu máu các con dê, con bò, nếu nước tro của xác bò cái, đem rảy lên mình những kẻ nhiễm uế còn thánh hoá được họ, nghĩa là cho thân xác họ trở nên trong sạch, thì máu của Đức Kitô càng hiệu lực hơn biết mấy. Nhờ Thánh Thần hằng hữu thúc đẩy, Đức Kitô đã tự hiến tế như lễ vật vẹn toàn dâng lên Thiên Chúa. Máu của Người thanh tẩy lương tâm chúng ta khỏi những việc đưa tới sự chết, để chúng ta xứng đáng phụng thờ Thiên Chúa hằng sống.”

2/ Bài đọc I (năm chẵn)"Hỡi Israel, trên các đồi của ngươi, những người con ưu tú đã bỏ mình."
2.1/ Phải biết tri ân những người đã hy sinh xương máu để bảo vệ quốc gia:
(1) Nhà lãnh đạo biết đặt lợi ích quốc gia lên trên những xung đột cá nhân: Thông thường, nhiều người sẽ vui mừng khi thấy đối phương của mình không còn nữa, không còn phải lo đề phòng tai hại, và nhất là ngày mình được làm vua sẽ thành tựu. Điều này không đúng trong trường hợp của David, vì ông tôn trọng vua Saul, người đã được Đức Chúa xức dầu phong vương; và yêu mến Jonathan, con vua, vì tình bằng hữu và ơn cứu tử đã dành cho David. Hơn nữa, David còn đau buồn vì tình đồng bào và nghĩa anh em của những người dân trong cùng một nước; vì thế ông đau đớn khi nghe tường thuật hung tin bởi một binh lính thoát chết trở về: "Dân đã bỏ chiến trường mà chạy trốn; nhiều người trong dân tử trận, cả vua Saul và con vua là ông Jonathan cũng đã chết."
(2) Nhà lãnh đạo phải có lòng biết ơn đối với những người đi trước: Tiền đồ của dân tộc được xây dựng trên công lao và hy sinh xương máu của những thế hệ đi trước; vì thế, bổn phận của những người đi sau là phải biết ơn, cầu nguyện, và cố gắng bảo vệ gia sản của tiền nhân để lại. Để tỏ lòng thương tiếc và biết ơn, David nắm lấy áo mình mà xé ra, và tất cả những người ở với ông cũng làm như vậy. "Họ cử hành tang lễ, khóc lóc và ăn chay cho đến chiều để tỏ lòng thương tiếc vua Saul và ông Jonathan, con vua, thương tiếc dân Đức Chúa và nhà Israel, vì những người này đã ngã gục dưới lưỡi gươm." Tất cả những việc làm như: xé áo, bỏ đất lên đầu, khóc lóc, và ăn chay là theo truyền thống khóc thương thân nhân của con cái Israel.

2.2/ David khóc thương Saul và Jonathan:
(1) Vua Saul và Jonathan đã hy sinh xương máu để lo lắng và bảo vệ dân: Con người rất dễ quên công ơn của các tiền nhân; nhất là những người mà họ có vấn đề với. Điều này đã không xảy ra cho David, ông nhận ra những công ơn mà cha con của vua Saul đã làm cho quốc gia. Sự hy sinh của họ là lý do đất nước được hưng thịnh và bảo vệ. David khuyên các phụ nữ hãy khóc thương vua Saul và con ông vì những gì hai cha con đã mang lại cho họ: "Thiếu nữ Israel hỡi, hãy khóc Saul, người đã mặc cho các cô vải điều lộng lẫy, đính trên áo các cô đồ trang sức bằng vàng. Than ôi! Các anh hùng đã ngã gục giữa lúc giao tranh! Trên các đồi của ngươi, Jonathan đã bỏ mình!"
(2) David trân quí tình bằng hữu và ơn cứu tử của Jonathan: Tình bằng hữu giữa David và Jonathan bắt đầu bằng việc tôn trọng sự thật. Jonathan nhận thấy cha mình đã không cư xử đúng đắn với tình yêu của David dành cho vua, lý do chỉ vì ghen tị những thành công mà David đã gặt hái được qua việc giết tên khổng lồ Philistine. Jonathan quyết định ngăn cản vua cha về việc đối xử bất công với David, bằng cách cho David biết tất cả ý đồ của nhà vua (I Sam 19-20). Khi nghe tin Jonathan bỏ mình trên chiến trường, David trân quí tình bằng hữu và ơn cứu tử của Jonathan dành cho mình nên khóc thương ông như sau: "Jonathan, anh hỡi, lòng tôi se lại vì anh! Tôi thương anh biết mấy! Tình anh đối với tôi thật diệu kỳ hơn cả tình nhi nữ. Than ôi! Anh hùng nay ngã gục, võ khí đã tan tành!"

3/ Phúc ÂmChúa Giêsu và các môn đệ quên mình để lo cho dân chúng.
3.1/ Lòng yêu thương của Chúa Giêsu dành cho con người: “Người trở về nhà và đám đông lại kéo đến, thành thử Người và các môn đệ không sao ăn uống được.” Những việc này xảy ra là vì Chúa Giêsu và các môn đệ quá thương dân chúng. Nếu Chúa Giêsu không muốn những điều này xảy ra, Ngài chỉ cần đình chỉ việc chữa lành hay lánh đi một nơi hẻo lánh, là giải quyết được vấn đề. Chỉ có tình yêu cho dân chúng mới thúc đẩy Chúa Giêsu và các môn đệ lâm vào hoàn cảnh này; tuy vậy, các ngài vẫn vui vẻ phục vụ.
3.2/ Thân nhân không thể hiểu nổi những gì Chúa Giêsu làm: “Thân nhân của Người hay tin ấy, liền đi bắt Người, vì họ nói rằng Người đã mất trí.” Theo thói thường, người không yêu không thể hiểu nổi lý lẽ của tình yêu. Các thân nhân của Chúa Giêsu không thể nào hiểu nổi tình yêu của Chúa Giêsu dành cho Chúa Cha và cho con người. Theo họ, cuộc sống như Chúa Giêsu đang sống là một điên khùng và thất bại, vì Ngài phải:
(1) Lang thang khắp nơi, nay đây mai đó, không có nghề nghiệp gì nhất định; trong khi theo họ, con người phải có mái nhà an toàn và nghề nghiệp vững chắc để sinh sống.
(2) Kết bạn với những người nghèo khổ và thất học; trong khi theo họ, phải có kiến thức và địa vị cao trọng trong xã hội.
(3) Dám đương đầu với quyền lực của giới cai trị tôn giáo như Biệt-phái, Kinh-sư, Cao-niên. Theo họ, làm như thế là tự mang án tử cho mình.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Nhìn vào những gì Chúa Giêsu đã, đang, và sẽ làm cho con người, chúng ta cảm nhận được tình yêu thâm sâu của Ngài dành cho chúng ta. "Không ai dám hy sinh tính mạng cho người khác; họa chăng có người dám chết vì người công chính. Đức Kitô đã chết cho chúng ta khi chúng ta còn là tội nhân."
- Chúng ta cần loại bỏ tính ích kỷ, kẻ thù của tình yêu và là mối đe dọa cho lợi ích chung; để biết nhận ra và tri ân những hy sinh cao quí của mọi người đã làm ơn cho chúng ta trong đời.
- Vì Đức Kitô đã yêu thương và hy sinh tất cả cho chúng ta, chúng ta không được ích kỷ để chỉ biết sống cho mình; nhưng phải yêu thương và hy sinh cho người khác như Đức Kitô đã dạy chúng ta.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP
****************