Thánh Giêrôme Emiliani
(1481 - 1537)
(1481 - 1537)
Khi còn là một sĩ quan đầy tự tin và khô đạo,
chỉ huy một pháo đài của thành phố Venice, Giêrôme Emiliani bị bắt sau vụ tấn
công của địch thủ là Liên Minh Cambrai và bị nhốt trong một tháp canh. Chính
trong thời gian tù đầy này, Giêrôme đã có thời giờ suy nghĩ, và ngài quyết định
thoát khỏi xiềng xích ràng buộc chính mình. Ngài khước từ mọi quyến luyến của
thế gian và trở về với Thiên Chúa.
Sau khi vượt thoát ngục tù, ngài treo xiềng
xích ở nhà thờ Treviso gần đó -- như để nói lên lòng biết ơn đã được tự do
không những về phần xác mà còn được giải thoát phần tinh thần.
Sau một thời gian ngắn làm thị trưởng
Treviso, ngài trở về Venice là nơi ngài theo học làm linh mục. Nhiều năm sau
khi thụ phong, chiến tranh đã chấm dứt nhưng nhiều biến cố xảy đến đã khiến Cha
Giêrôme thay đổi đời sống. Một trận dịch và nạn đói đã càn quét khắp cả miền
bắc nước Ý. Cha Giêrôme lại xung phong trong việc chăm sóc bệnh nhân và nuôi
người đói. Ngài cảm thấy có ơn gọi đặc biệt trong việc chăm sóc các trẻ em mồ
côi. Bằng chính tài sản của mình, ngài sáng lập ba cô nhi viện, một trung tâm
hoàn lương cho các cô gái điếm và một bệnh viện. Từ đó dẫn đến việc thành lập
một tu hội cho các linh mục và các thầy mà tên của tu hội là tên nơi sáng lập:
Tu Hội Somascha. Mặc dù tu hội dành toàn thời giờ để giáo dục thanh thiếu niên,
công việc chính của họ vẫn là đam mê đầu tiên của Cha Giêrôme -- đó là chăm sóc các em cô nhi.
công việc chính của họ vẫn là đam mê đầu tiên của Cha Giêrôme -- đó là chăm sóc các em cô nhi.
Xiềng xích cuối cùng của Cha Giêrôme được
tháo bỏ là khi ngài lâm bệnh vì chăm sóc bệnh nhân. Ngài từ trần năm 1537 hưởng
thọ 56 tuổi.
Ngài được phong thánh năm 1767, và năm 1928,
Ðức Piô XI đặt ngài làm quan thầy các trẻ mồ côi và các em bị bỏ rơi.
Lời Bàn
Lời Bàn
Trong cuộc đời chúng ta, nhiều khi phải tự
"giam hãm" mình để thoát khỏi xiềng xích của cái tôi. Khi chúng ta bị
"kẹt" trong những trường hợp mà mình không muốn, lúc đó chúng ta mới
nhận ra sức mạnh giải thoát của một Ðấng khác. Và chỉ lúc ấy chúng ta mới có
thể trở nên một người khác cho những "kẻ tù đầy" và các "em cô nhi"
chung quanh chúng ta.
Lời Trích
Thánh Josephine
Bakhita
(k. 1868-1947)
Thánh Josephine Bakhita sinh ở Sudan, được
coi là người nô lệ Phi Châu đầu tiên được Giáo Hội phong thánh. Vào lúc 10
tuổi, ngài bị bắt cóc bởi bọn buôn nô lệ và được đặt tên là
"Bakhita," hoặc "đứa may mắn." Bị buôn đi bán lại ở các thị
trường El Obeid và Khartoum, Bakhita phải trải qua đủ loại đau khổ về tinh
thần, tâm lý và thể xác vì thân phận nô lệ. Khi lần sau cùng cô được bán cho
ông Callisto Legnani, vị lãnh sự Ý thực tâm muốn giải thoát cô, thì cuộc đời cô
mới thực sự thay đổi.
Khi vị lãnh sự trở về Ý vì
lý do chính trị thì Bakhita cũng xin tháp tùng gia đình ông. Mặc dù sau đó cô
tiếp tục làm công cho một gia đình khác, cuộc đời Bakhita ở Ý là một cuộc đời
hạnh phúc. Cô được đối xử tử tế và được tôn trọng.
Cô cũng làm quen với các nữ tu dòng Bác Ái
Canossa ở Venice; chính họ là những người đã nói với cô về Thiên Chúa là Ðấng
mà tự nhiên cô bị thu hút đến với Người. Sau nhiều tháng học hỏi, cô được tháp
nhập vào Giáo Hội qua các bí tích Rửa Tội, Thêm Sức và Rước Lễ. Cô lấy tên mới
là Josephine để đánh dấu một cuộc đời mới trong Ðức Kitô.
Vài năm sau Josephine gia nhập tu viện Bác Ái
Canossa ở Venice. Trong 50 năm tiếp đó, cô là một nữ tu nổi tiếng về đạo đức và
công việc bác ái. Trong suốt cuộc đời tu trì, sơ Josephine đảm trách các công
việc rất tầm thường nhưng cần thiết cho nhà dòng -- nấu ăn, may vá, giữ cửa tu
viện ở Schio, gần Padua. Thái độ hiền lành, hòa nhã và giọng nói êm ả của sơ là
sự an ủi cho những người nghèo và người đau khổ thường đến với nhà dòng xin
giúp đỡ.
Mặc dù tuổi tác đem lại sức khỏe yếu kém, sơ
Josephine vẫn là một nhân chứng của hy vọng và thiện tâm. Trong những giờ phút
cuối đời, dường như sơ sống lại những ngày kinh hoàng của đời nô lệ. Người ta
nghe sơ rên rỉ nói người y tá rằng "Làm ơn nới lỏng cái xích sắt ấy một
chút... nó nặng quaù!"
Sơ được Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phong
chân phước năm 1992. Vào năm kế đó, khi Ðức Thánh Cha thực hiện cuộc tông du
sang Phi Châu, mẹ bề trên dòng Canossa đã dâng lên ngài các di tích của Chân
Phước Josephine. Trong bài giảng, đức giáo hoàng nói: "Hãy vui lên, hỡi
tất cả Phi Châu! Bakhita đã trở lại với ngươi: ngài là con gái của Sudan, bị
bán làm nô lệ như một món hàng, tuy thế ngài vẫn tự do: tự do của các thánh."
Vào tháng Mười 2000, Ðức Giáo Hoàng Gioan
Phaolô II đã phong thánh cho ngài.
Lời Trích
"Khi nhìn thấy mặt trời, mặt trăng và
muôn tinh tú, tôi tự nhủ, 'Ai có thể là Chủ Nhân của những vật mỹ miều ấy?' Tôi
vô cùng khát khao để thấy Người, để biết Người và để thần phục Người."
(Chân Phước Josephine Bakhita).
Trích từ NguoiTinHuu.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét