Thứ Ba, Tuần II TN
Bài
đọc: Heb 6:10-20; I Sam 16:1-13; Mk 2:23-28.
1/
Bài đọc I (năm lẻ):
10 Quả thế, Thiên Chúa không bất công đến nỗi
quên việc anh em đã làm và lòng yêu mến anh em đã tỏ ra đối với danh Người, khi
trước đấy anh em phục vụ các người trong dân thánh, và hiện nay vẫn còn đang
phục vụ. 11 Nhưng chúng tôi ao ước cho mỗi người trong anh
em cũng tỏ ra nhiệt thành như thế, để niềm hy vọng của anh em được thực hiện
đầy đủ cho đến cùng. 12 Anh em đừng trở nên uể oải, nhưng
hãy bắt chước những người nhờ có đức tin và lòng kiên nhẫn mà được thừa hưởng
các lời hứa. 13 Quả thế, khi Thiên Chúa hứa với ông
Áp-ra-ham, Người đã không thể lấy danh ai cao trọng hơn mình mà thề, nên đã lấy
chính danh mình mà thề 14 rằng: Ta sẽ ban phúc dư dật cho
ngươi và sẽ làm cho dòng dõi ngươi nên đông vô số.
15 Như thế, vì nhẫn nại đợi chờ, ông
Áp-ra-ham đã nhận được lời hứa. 16 Người ta thường lấy
danh một người cao trọng hơn mình mà thề, và lời thề là một bảo đảm chấm dứt
mọi tranh chấp giữa người ta với nhau. 17 Do đó, vì Thiên
Chúa muốn chứng minh rõ hơn cho những người thừa hưởng lời hứa được biết về ý
định bất di bất dịch của Người, nên Người đã dùng lời thề mà bảo đảm điều Người
đã hứa. 18 Như vậy, cả lời hứa lẫn lời thề đều bất di bất
dịch, và khi thề hứa, Thiên Chúa không thể nói dối được. Do đó, chúng ta là
những kẻ ẩn náu bên Thiên Chúa, chúng ta được mạnh mẽ khuyến khích nắm giữ niềm
hy vọng dành cho chúng ta. 19 Chúng ta có niềm hy vọng đó
cũng tựa như cái neo chắc chắn và bền vững của tâm hồn, chìm sâu vào bên trong
bức màn cung thánh. 20 Đó là nơi Đức Giê-su đã vào như
người tiền phong mở đường cho chúng ta, sau khi trở thành vị Thượng Tế đời đời
theo phẩm trật Men-ki-xê-đê.
2/
Bài đọc I (năm chẵn):
1 Đức Chúa phán với ông Sa-mu-en:
"Ngươi còn khóc thương Sa-un cho đến bao giờ, khi ta đã gạt bỏ nó, không
cho làm vua cai trị Ít-ra-en nữa? Ngươi hãy lấy dầu đổ đầy sừng và lên đường.
Ta sai ngươi đến gặp Gie-sê người Bê-lem, vì Ta đã thấy trong các con trai nó
một người Ta muốn đặt làm vua." 2 Ông Sa-mu-en thưa:
"Con đi thế nào được? Vua Sa-un mà nghe biết thì vua sẽ giết con! "
Đức Chúa phán: "Ngươi hãy đem theo một con bò cái tơ và hãy nói: "Tôi
tới đây là để dâng hy lễ lên Đức Chúa. 3 Ngươi sẽ mời
Gie-sê đến dự hy lễ; phần Ta, Ta sẽ cho ngươi biết điều ngươi phải làm, và
ngươi sẽ xức dầu tấn phong cho Ta kẻ Ta sẽ nói cho ngươi hay." 4 Ông
Sa-mu-en làm điều Đức Chúa đã phán; ông đến Bê-lem và các kỳ mục trong thành
run sợ ra đón ông. Họ nói: "Ông đến có phải là để đem bình an không?"
5 Ông trả lời: "Bình an! Tôi tới đây là
để dâng hy lễ lên Đức Chúa. Các ông hãy thanh tẩy mình và đến dự hy lễ với
tôi." Ông thanh tẩy ông Gie-sê và các con trai ông ấy và mời họ đến dự hy
lễ.
6 Khi họ đến, ông thấy Ê-li-áp, ông nghĩ:
"Đúng rồi! Người Đức Chúa xức dầu tấn phong đang ở trước mặt Đức Chúa
đây!"7 Nhưng Đức Chúa phán với ông Sa-mu-en: "Đừng
xét theo hình dáng và vóc người cao lớn của nó, vì Ta đã gạt bỏ nó. Thiên Chúa
không nhìn theo kiểu người phàm: người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức
Chúa thì thấy tận đáy lòng."
8 Ông Gie-sê gọi A-vi-na-đáp và cho cậu đi
qua trước mặt Sa-mu-en, nhưng ông Sa-mu-en nói: "Cả người này, Đức Chúa
cũng không chọn." 9 Ông Gie-sê cho Sa-ma đi qua,
nhưng ông Sa-mu-en nói: "Cả người này, Đức Chúa cũng không chọn." 10 Ông
Gie-sê cho bảy người con trai đi qua trước mặt ông Sa-mu-en, nhưng ông Sa-mu-en
nói với ông Gie-sê: " Đức Chúa không chọn những người này." 11 Rồi
ông lại hỏi ông Gie-sê: "Các con ông có mặt đầy đủ chưa? " Ông Gie-sê
trả lời: "Còn cháu út nữa, nó đang chăn chiên." Ông Sa-mu-en liền nói
với ông Gie-sê: "Xin ông cho người đi tìm nó về, chúng ta sẽ không nhập
tiệc trước khi nó tới đây."
12 Ông Gie-sê cho người đi đón cậu về. Cậu có
mái tóc hung, đôi mắt đẹp và khuôn mặt xinh xắn. Đức Chúa phán với ông
Sa-mu-en: "Đứng dậy, xức dầu tấn phong nó đi! Chính nó đó! "
13 Ông Sa-mu-en cầm lấy sừng dầu và xức cho
cậu, ở giữa các anh của cậu. Thần khí Đức Chúa nhập vào Đa-vít từ ngày đó trở
đi. Ông Sa-mu-en đứng dậy và đi Ra-ma.
3/
Phúc Âm:
23 Vào ngày sa-bát, Đức Giê-su đi băng qua
một cánh đồng lúa. Dọc đường, các môn đệ bắt đầu bứt lúa. 24 Người
Pha-ri-sêu liền nói với Đức Giê-su: "Ông coi, ngày sa-bát mà họ làm gì
kia? Điều ấy đâu được phép!" 25 Người đáp: "Các
ông chưa bao giờ đọc trong Sách sao? Ông Đa-vít đã làm gì, khi ông và thuộc hạ
bị thiếu thốn và đói bụng? 26 Dưới thời thượng tế
A-bi-a-tha, ông vào nhà Thiên Chúa, ăn bánh tiến, rồi còn cho cả thuộc hạ ăn
nữa. Thứ bánh này không ai được phép ăn ngoại trừ tư tế." 27 Người
nói tiếp: "Ngày sa-bát được tạo nên cho con người, chứ không phải con
người cho ngày sa-bát. 28 Bởi đó, Con Người làm chủ luôn
cả ngày sa-bát."
GIỚI
THIỆU CHỦ ĐỀ:
Con người quí trọng hơn luật lệ.
Phẩm giá con người rất quí trọng trước mặt Thiên
Chúa. Các Lề Luật Ngài ban là để bảo vệ và phục vụ con người. Trong sự quan
phòng của Thiên Chúa, Ngài không bao giờ muốn cho con người phải làm nô lệ cho
Lề Luật và tội lỗi; nhưng muốn Lề Luật phục vụ con người và làm cho đời sống
con người được bảo vệ và an toàn hơn.
Các Bài Đọc hôm nay nói lên sự quan tâm của
Thiên Chúa dành cho con người. Trong Bài Đọc I, năm lẻ, tác giả Thư Do-thái
khuyên các tín hữu phải bền lòng trông cậy vào lời Thiên Chúa đã hứa. Một khi
Thiên Chúa hứa, Ngài sẽ thi hành. Tác giả đưa ra một ví dụ là lời Thiên Chúa
hứa với tổ-phụ Abraham. Lời hứa này đã được thực hiện nơi Đức Kitô, khi Ngài đi
tiên phong vào nơi Cực Thánh để mở đường cho con người đến trực tiếp với Thiên
Chúa. Trong Bài Đọc I, năm chẵn, tác giả tường thuật việc Thiên Chúa chọn người
và phong vương cho một trẻ chăn chiên nhỏ nhất và không ai ngờ trong những
người con của ông Jesse; vì Ngài nhìn thấu tâm hồn cao đẹp của David. David đã
trở thành vị vua sáng giá nhất của Israel. Trong Phúc Âm, các Pharisees tố cáo
với Chúa Giêsu: các môn đệ của Ngài đã vi phạm luật của ngày Sabbath. Chúa
Giêsu bảo vệ các môn đệ của Ngài có lý do làm như thế để bảo vệ sự sống. Ngài
nhắc cho họ biết luật lệ làm ra là vì con người, chứ không phải con người cho
luật lệ.
KHAI
TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I (năm lẻ): Mọi việc chúng ta làm đều được ghi nhận bởi Thiên Chúa.
1.1/ Phải kiên nhẫn trong khi Chúa thực hiện lời
hứa: Tác giả Thư Do-thái xác tín: “Quả thế, Thiên Chúa không bất công đến nỗi
quên việc anh em đã làm và lòng yêu mến anh em đã tỏ ra đối với danh Người, khi
trước đấy anh em phục vụ các người trong dân thánh, và hiện nay vẫn còn đang
phục vụ. Nhưng chúng tôi ao ước cho mỗi người trong anh em cũng tỏ ra nhiệt
thành như thế, để niềm hy vọng của anh em được thực hiện đầy đủ cho đến cùng.”
Qua đoạn văn này, tác giả muốn khuyên các tín hữu 2 điều:
(1) Những lúc tăm tối của cuộc đời: Đừng nản
lòng! Hãy nắm giữ niềm hy vọng vào lời Thiên Chúa hứa. Con người ai cũng phải
trải qua những đêm tăm tối này. Trong những lúc như thế, tác giả khuyên cứ giữ
vững đức tin, thực hành các việc lành như đã và đang làm. Chắc chắn tăm tối sẽ
qua, và ánh sáng của Thiên Chúa lại tiếp tục chiếu sáng.
(2) Bắt chước gương tổ-phụ Abraham: “Anh em đừng
trở nên uể oải, nhưng hãy bắt chước những người nhờ có đức tin và lòng kiên
nhẫn mà được thừa hưởng các lời hứa… Như thế, vì nhẫn nại đợi chờ, ông Abraham
đã nhận được lời hứa.”
1.2/ Lời Thiên Chúa hứa với tổ-phụ Abraham: “Ta
sẽ ban phúc dư dật cho ngươi và sẽ làm cho dòng dõi ngươi nên đông vô số” (Gen
22:16-18).
(1) Lời hứa được bảo đảm bằng lời thề: Con người
thường lấy danh ai cao hơn mình mà thề để bảo đảm lời mình đã long trọng hứa.
Khi Thiên Chúa hứa với ông Abraham, Người đã không thể lấy danh ai cao trọng
hơn mình mà thề, nên đã lấy chính danh mình mà thề. Như vậy, cả lời hứa lẫn lời
thề đều bất di bất dịch, và khi thề hứa, Thiên Chúa không thể nói dối được. Do
đó, chúng ta là những kẻ ẩn náu bên Thiên Chúa, chúng ta được mạnh mẽ khuyến
khích nắm giữ niềm hy vọng dành cho chúng ta.
(2) Lời hứa của Thiên Chúa được thực hiện qua
Đức Kitô: “Chúng ta có điều này như cái neo chắc chắn và bền vững của
tâm hồn, là hy vọng được vào cung điện cực thánh bên trong, đàng sau tấm màn.
Đó là nơi Đức Giêsu đã vào như ngườitiền phong mở đường cho chúng
ta, sau khi trở thành vị Thượng Tế đời đời theo phẩm trật Melkisedek.”
Đối với các thủy thủ, cái neo là khí cụ cần
thiết cho việc sinh tồn. Một khi đã thả neo là không còn sợ sóng gió làm thuyền
lật được nữa. Trong thế giới ngày xưa, cái neo là biểu tượng của hy vọng.
Pythagore nói: “Của cải là cái neo mỏng giòn; danh vọng còn yếu hơn. Khôn
ngoan, rộng lượng, và can đảm, là những cái neo mà không sóng gió nào có thể
vùi giập được.” Tác giả Thư Do-thái nhấn mạnh người tín hữu có một hy vọng lớn
lao nhất trong thế giới là hy vọng của họ vào Lời Thiên Chúa hứa.
Niềm hy vọng đó là được vào trong thánh điện
đàng sau bức màn. Trong Đền Thờ, chỗ cực thánh là nơi chứa đựng Hòm Bia Thiên
Chúa, được che phủ bởi bức màn. Đây là nơi Thiên Chúa ngự. Trong nơi này, chỉ
độc quyền có một người được vào, mỗi năm một lần; đó là vị thượng tế trong Ngày
Xá Tội mà thôi. Tác giả Thư Do-Thái có ý muốn nói: Giờ đây, Chúa Giêsu Kitô đã
mở đường vào nơi đó cho tất cả con người ở mọi nơi và mọi thời. Từ ngữ ông dùng
để chỉ Chúa Giêsu như prodromos = người tiên phong mở đường.
Chúa Giêsu đi tiền phong mở đường vào nơi hiện diện của Thiên Chúa, và Ngài bảo
đảm an toàn cho tất cả những ai theo sau. Nói cách khác, trước khi Đức Kitô
xuất hiện, Thiên Chúa là Người Khách xa lạ và cách biệt với con người; chỉ một
số nhỏ có thể đến gần và luôn sợ bị thiệt mạng. Nhưng sau khi Đức Kitô đến,
Thiên Chúa trở nên bạn hữu của tất cả; mọi người đều có thể đến trực tiếp với
Thiên Chúa.
2/ Bài đọc I (năm chẵn): Người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, Đức Chúa thì thấy
tận đáy lòng.
2.1/ Cuộc lựa chọn người làm vua trong số các
con của ông Jesse: Thiên Chúa hứa Ngài sẽ hành động trong ngôn-sứ Samuel ngay
tại nơi đang diễn ra cuộc lựa chọn người làm vua trong gia đình ông Jesse. Cả
ngôn sứ Samuel và ông Jesse đều không hay biết hậu quả của những gì sắp xảy ra.
- Phản ứng của ngôn-sứ Samuel: Thoạt trông thấy
Eliab, ông nghĩ: "Đúng rồi! Người Đức Chúa xức dầu tấn phong đang ở trước
mặt Đức Chúa đây!" Nhưng Đức Chúa phán với ông Samuel: "Đừng xét theo
hình dáng và vóc người cao lớn của nó, vì Ta đã gạt bỏ nó. Thiên Chúa không
nhìn theo kiểu người phàm: người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thì
thấy tận đáy lòng."
- Ông Jesse gọi Abinadab và cho cậu đi qua trước
mặt Samuel, nhưng ông Samuel nói: "Cả người này, Đức Chúa cũng không
chọn." Ông Jesse cho Samah đi qua, nhưng ông Samuel nói: "Cả người
này, Đức Chúa cũng không chọn." Ông Jesse cho bảy người con trai đi qua
trước mặt ông Samuel, nhưng ông Samuel nói với ông Jesse: "Đức Chúa không
chọn những người này."
2.2/ Thiên Chúa chọn một trẻ út chăn chiên làm
vua cai trị dân Người: Samuel lại hỏi ông Jesse: "Các con ông có mặt đầy
đủ chưa?" Ông Jesse trả lời: "Còn cháu út nữa, nó đang chăn
chiên." Ông Samuel liền nói với ông Jesse: "Xin ông cho người đi tìm
nó về, chúng ta sẽ không nhập tiệc trước khi nó tới đây."
- Ông Jesse cho người đi đón cậu về. Cậu có mái
tóc hung, đôi mắt đẹp và khuôn mặt xinh xắn. Đức Chúa phán với ông Samuel:
"Đứng dậy, xức dầu tấn phong nó đi! Chính nó đó!" Ông Samuel cầm lấy
sừng dầu và xức cho cậu, ở giữa các anh của cậu. Thần khí Đức Chúa nhập vào
David từ ngày đó trở đi.
- Chính ông Jesse cũng không ngờ Thiên Chúa chọn
David, một đứa trẻ út đang chăn chiên ngoài đồng. Đó là lý do mà ông không buồn
cho gọi con về; nhưng Thiên Chúa nhìn thấu tâm hồn đẹp và các việc tốt lành của
David. Ngài muốn chọn cậu làm vua cai trị dân Ngài và David đã trở thành vị vua
nổi danh nhất của dân tộc Israel.
3/ Phúc Âm: Con Người làm chủ luôn cả ngày
Sabbath.
3.1/ Người Pharisees tố cáo các môn đệ Chúa
Giêsu vi phạm ngày Sabbath: Vào ngày Sabbath, Đức Giêsu đi băng qua một cánh
đồng lúa. Dọc đường, các môn đệ bắt đầu bứt lúa. Người Pharisees liền nói với
Đức Giêsu: "Ông coi, ngày Sabbath mà họ làm gì kia? Điều ấy đâu được
phép!" Có tất cả 39 luật về ngày Sabbath ngăn cấm không cho làm việc, và
các môn đệ phạm 4 luật bằng hành động bứt lúa để ăn: gặt (bứt lúa), xay (vò lúa
trong tay), sàng (thổi vỏ đi), và chuẩn bị bữa ăn (làm lúa sẵn sàng để ăn). Sự
tỉ mỉ của Luật có thể có thể làm chúng ta lắc đầu; nhưng đối với các Rabbi, nó
liên quan đến tội, và có thể gây ra cái chết. Đó là lý do họ tố cáo các môn đệ
với Chúa Giêsu, và họ chờ Chúa sửa phạt các môn đệ.
3.2/ Chúa Giêsu bảo vệ các môn đệ của Ngài: Chúa
Giêsu đưa ra một trường hợp riêng đã được ghi lại trong Cựu Ước, và sau đó,
Ngài thiết lập một qui luật chung về ngày Sabbath.
(1) Trường hợp vua David (I Sam 21:1-6): Người
đáp: "Các ông chưa bao giờ đọc trong Sách sao? Ông David đã làm gì, khi
ông và thuộc hạ bị thiếu thốn và đói bụng? Dưới thời thượng-tế Abiathar, ông
vào nhà Thiên Chúa, ăn bánh tiến, rồi còn cho cả thuộc hạ ăn nữa. Thứ bánh này
không ai được phép ăn ngoại trừ tư tế." Chúa Giêsu có ý muốn nói: trong
trường hợp phải bảo vệ sự sống, con người có thể vi phạm Lề Luật.
(2) Luật chung của ngày Sabbath: Người nói tiếp:
"Ngày Sabbath được tạo nên cho con người, chứ không phải con người cho
ngày Sabbath. Bởi đó, Con Người làm chủ luôn cả ngày Sabbath." Điều này
hiển nhiên, vì con người được Thiên Chúa tạo dựng trước khi luật về ngày
Sabbath ra đời. Con người không được tạo dựng để trở thành nạn nhân hay làm nô
lệ cho luật lệ của ngày Sabbath. Sở dĩ có luật lệ về ngày Sabbath là để bảo vệ
con người, làm cho con người biết thân xác họ cần được nghỉ ngơi, và linh hồn
họ cần được nuôi dưỡng bởi thức ăn tinh thần.
ÁP
DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Phẩm giá con người chúng ta rất quí trọng
trước mặt Thiên Chúa. Ngài đã hy sinh Người Con của Ngài để cứu chúng ta thóat
khỏi làm nô lệ cho Lề Luật, tội lỗi, và sự chết.
- Nhờ lễ tế hy sinh của Người Con, chúng ta có
thể đến trực tiếp với Thiên Chúa mà không cần qua trung gian; đến bất cứ lúc
nào chứ không phải đợi một ngày cố định trong năm.
Linh mục Anthony Đinh
Minh Tiên OP
****************
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét