Thứ Năm, Tuần II TN
Bài đọc: Heb
7:25-8:6; I Sam 18:6-9, 19:1-7; Mk 3:7-12.
1/ Bài đọc I (năm lẻ):
25 Do đó, Người có thể đem ơn cứu độ vĩnh viễn cho những ai nhờ
Người mà tiến lại gần Thiên Chúa. Thật vậy, Người hằng sống để chuyển cầu cho
họ.
26 Phải, đó chính là vị Thượng Tế mà chúng ta cần đến: một vị
Thượng Tế thánh thiện, vẹn toàn, vô tội, tách biệt khỏi đám tội nhân và được
nâng cao vượt các tầng trời.
27 Đức Giê-su không như các vị thượng tế khác: mỗi ngày họ phải
dâng lễ tế hy sinh, trước là để đền tội của mình, sau là để đền thay cho dân;
phần Người, Người đã dâng chính mình và chỉ dâng một lần là đủ. 28 Vì
Luật Mô-sê thì đặt làm thượng tế những con người vốn mỏng giòn yếu đuối, còn
lời thề có sau Lề Luật, lại đặt Người Con đã nên thập toàn cho đến muôn đời.
1 Điểm chủ yếu trong những điều đang nói ở đây là điểm này:
chúng ta có một vị Thượng Tế cao cả như thế ngự bên hữu ngai Đấng uy linh ở
trên trời. 2 Vị đó lo việc tế tự trong cung thánh, trong
lều trại thật, do Thiên Chúa chứ không phải do người phàm dựng lên. 3 Quả
vậy, bất cứ ai được phong làm thượng tế cũng là để dâng lễ vật và tế phẩm; vì
thế, vị này cũng cần phải có cái gì để dâng. 4 Vậy, giả
như Đức Giê-su ở dưới thế, thì Người chẳng phải là tư tế, bởi vì đã có những
người dâng lễ vật như Luật truyền. 5 Những người này lo
việc phụng tự trong một thánh điện, mà thánh điện này chỉ là hình ảnh lu mờ mô
phỏng thánh điện trên trời. Quả vậy, khi ông Mô-sê sắp dựng lều trại, thì ông
được Thiên Chúa phán dạy rằng: Hãy nhìn xem và làm tất cả theo mẫu đã chỉ cho
ngươi trên núi. 6 Nhưng hiện nay, Đức Giê-su được một tác
vụ cao trọng hơn, bởi vì Người là trung gian của một giao ước tốt đẹp hơn; giao
ước này căn cứ vào những lời hứa tốt đẹp hơn.
2/ Bài đọc I (năm chẵn):
6 Lúc quân dân đến, khi ông
Đa-vít hạ được tên Phi-li-tinh trở về, thì phụ nữ từ hết mọi thành của Ít-ra-en
kéo ra, ca hát múa nhảy, đón vua Sa-un, với trống con, với tiếng reo mừng và
tiếng não bạt. 7 Phụ nữ vui đùa ca hát rằng: "Vua
Sa-un hạ được hàng ngàn, ông Đa-vít hàng vạn." 8 Vua
Sa-un giận lắm, và bực mình vì lời ấy. Vua nói: "Người ta cho Đa-vít hàng
vạn, còn ta thì họ cho hàng ngàn. Nó chỉ còn thiếu ngôi vua nữa thôi!" 9 Từ
ngày đó về sau, vua Sa-un nhìn Đa-vít với con mắt ghen tị.
1 Vua Sa-un nói với ông Giô-na-than, con vua, và với toàn thể
triều thần về ý định giết ông Đa-vít. Nhưng ông Giô-na-than, con vua Sa-un, lại
rất có cảm tình với ông Đa-vít. 2 Ông Giô-na-than báo cho
ông Đa-vít rằng: "Vua Sa-un, cha tôi, đang tìm cách giết anh. Vậy sáng mai
anh hãy coi chừng, hãy ở nơi kín đáo và ẩn mình đi. 3 Phần
tôi, tôi sẽ đi ra, sẽ đứng cạnh cha tôi trong cánh đồng, nơi anh đang trốn, tôi
sẽ nói với cha tôi về anh. Thấy thế nào, tôi sẽ báo cho anh." 4 Ông
Giô-na-than nói tốt cho ông Đa-vít với vua Sa-un, cha mình; ông nói với vua:
"Xin đức vua đừng phạm tội hại tôi tớ ngài là Đa-vít, vì anh ấy đã không
phạm tội hại ngài, và các hành động của anh là điều rất lợi cho ngài. 5 Anh
đã liều mạng và hạ được tên Phi-li-tinh, và Đức Chúa đã thắng lớn để bảo vệ
toàn thể Ít-ra-en. Ngài đã thấy và đã vui mừng. Vậy sao ngài lại phạm tội đổ
máu vô tội, mà vô cớ giết Đa-vít?" 6 Vua Sa-un nghe
theo lời ông Giô-na-than, và vua Sa-un thề rằng: "Có Đức Chúa hằng sống,
ta thề: nó sẽ không bị giết." 7 Ông Giô-na-than gọi
ông Đa-vít đến và ông Giô-na-than thuật lại tất cả những điều ấy; rồi ông
Giô-na-than dẫn ông Đa-vít đến với vua Sa-un, và ông Đa-vít lại phục vụ vua như
trước.
3/ Phúc Âm:
7 Đức Giê-su cùng với các môn đệ của Người lánh về phía Biển
Hồ. Từ miền Ga-li-lê, người ta lũ lượt đi theo Người. Và từ miền Giu-đê, 8 từ
Giê-ru-sa-lem, từ xứ I-đu-mê, từ vùng bên kia sông Gio-đan và vùng phụ cận hai
thành Tia và Xi-đôn, người ta lũ lượt đến với Người, vì nghe biết những gì
Người đã làm.
9 Người đã bảo các môn đệ dành sẵn cho Người một chiếc thuyền
nhỏ, để khỏi bị đám đông chen lấn. 10 Quả thế, Người đã
chữa lành nhiều bệnh nhân, khiến ai ai có bệnh cũng đổ xô đến để sờ vào Người. 11 Còn
các thần ô uế, hễ thấy Đức Giê-su, thì sấp mình dưới chân Người và kêu lên:
"Ông là Con Thiên Chúa!" 12 Nhưng Người cấm ngặt
chúng không được tiết lộ Người là ai.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Chúa Giêsu là sự toàn hảo
của Thiên Chúa.
Trong cuộc sống, con người phải trải qua nhiều
giai đọan thử thách và vấp ngã, trước khi đạt tới chỗ toàn hảo. Tục ngữ Việt
Nam cũng nói lên điều này trong câu: “Thất bại là mẹ thành công.” Tác giả Thư
Do-Thái đề cập đến quan niệm này ngay từ đầu Thư: “Thuở xưa, nhiều lần nhiều
cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời
sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử. Thiên Chúa đã nhờ
Người mà dựng nên vũ trụ, đã đặt Người làm Đấng thừa hưởng muôn vật muôn loài.”
Khi cái hoàn hảo tới thì cái tạm thời qua đi. Điều quan trọng là con người cần
nhận ra cái hoàn thiện và tin theo, chứ không ngoan cố giữ lại cái cũ.
Các Bài Đọc hôm nay nói lên vai trò quan trọng
của Chúa Giêsu trong Mầu Nhiệm Cứu Độ của Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, năm lẻ,
tác-giả Thư Do-thái nhấn mạnh đến 3 yếu tố quan trọng trong việc Chúa Giêsu
hiến mình làm của lễ đền tội cho con người: Ngài vừa là Thượng Tế theo phẩm
trật Melkizedek, vừa là của lễ toàn hảo, và nơi Ngài dâng của lễ lên Thiên Chúa
là ngai vàng nơi Thiên Chúa ngự trên trời. Trong Bài Đọc I, năm chẵn, vua Saul
ghen tị và muốn giết David, vì David được dân chúng ca ngợi nhiều hơn ông;
nhưng Jonathan con ông ngăn cản ông đừng làm chuyện đó. Trong Phúc Âm, khi nghe
những gì Chúa Giêsu đã làm, dân chúng từ khắp nơi kéo đến để được nghe giảng và
chữa lành bởi Chúa Giêsu; ngay cả các thần ô uế cũng khiếp sợ Ngài.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I (năm lẻ): Chúa Giêsu vừa là Thượng Tế thập toàn, vừa là của lễ hy
sinh toàn hảo.
1.1/ Của lễ của Thượng Tế Giêsu dâng thánh thiện
và vẹn toàn hơn của lễ của Cựu Ước: Để chứng minh điều này, tác giả Thư Do-thái
đề cao những đặc tính của Chúa Giêsu: “Phải, đó chính là vị Thượng Tế mà chúng
ta cần đến: một vị Thượng Tế thánh thiện, vẹn toàn, vô tội, tách biệt khỏi đám
tội nhân và được nâng cao vượt các tầng trời.”
(1) Chỉ dâng hy lễ một lần là đủ: “Đức Giêsu
không như các vị thượng tế khác: mỗi ngày họ phải dâng lễ tế hy sinh, trước là
để đền tội của mình, sau là để đền thay cho dân; phần Người, Người đã dâng
chính mình và chỉ dâng một lần là đủ.” Để hiểu ý tác giả, chúng ta cần so sánh
vai trò của Chúa Giêsu là Thượng Tế theo phẩm trật Melkizedek với vai trò của
thượng tế theo phẩm trật Aaron:
- Các thượng-tế: có vai trò nổi bật trong Ngày
Xá Tội, mỗi năm một lần. Trong ngày này, ông được quyền vào trong nơi Cực Thánh
để dâng lễ đền tội cho dân. Trước khi có thể dâng lễ đền tội cho dân chúng, ông
phải dâng lễ đền tội cho ông trước bằng lễ vật của chính ông. Sau đó, ông dâng
lễ vật của dân để đền tội cho họ. Ngày Xá Tội cứ tiếp diễn mỗi năm như thế.
- Thượng Tế Giêsu: Vì Ngài thánh thiện vẹn toàn,
nên Ngài không cần dâng của lễ đền tội cho mình. Để đền tội cho dân, Ngài dâng
chính thân mình làm của lễ đền tội. Đây là lễ vật hy sinh thánh thiện và tinh
tuyền nhất, không một của lễ nào có thể so sánh được. Chính vì vậy, Ngài chỉ
cần dâng một lần là đủ. Vì thế, Chúa Giêsu vừa là Thượng Tế, vừa là lễ vật hy
sinh; và vì Ngài sống mãi, nên biến cố hy sinh của Ngài trên đồi Golgotha thay
thế của lễ đền tội trong Ngày Xá Tội. Con người không cần lễ vật hy sinh của
theo Luật Cựu Ước nữa.
(2) Chúa Giêsu là Thượng Tế của Thiên Chúa và
của con người: Tác giả kết luận: “Vì Luật Moses thì đặt làm thượng tế những con
người vốn mỏng giòn yếu đuối, còn lời thề có sau Lề Luật, lại đặt Người Con đã
nên thập toàn cho đến muôn đời.” Nói cách khác, Chúa Giêsu vừa là Thượng Tế
toàn hảo, và của lễ Ngài dâng để đền tội cho dân cũng toàn hảo vì là chính bản
thân của Ngài.
1.2/ Thánh Điện để dâng của lễ là ngai vàng Thiên
Chúa trên trời: Sau khi đã đề cập tới chức vụ Thượng Tế, và của lễ hy sinh đề
tội, tác giả tiến đến chỗ dâng của lễ. Trong Cựu Ước, chỗ dâng của lễ là nơi
Cực Thánh trong Đền Thờ. Trong Tân Ước, chỗ dâng của lễ là chính ngai vàng
Thiên Chúa ngự: “Điểm chủ yếu trong những điều đang nói ở đây là điểm này:
chúng ta có một vị Thượng Tế cao cả như thế ngự bên hữu ngai Đấng uy linh ở
trên trời.”
(1) Nơi Cực Thánh trong Đền Thờ dưới đất: là nơi
Thiên Chúa hiện diện với con người. Nơi này được xây cất bởi con người theo một
kiểu mẫu mà Thiên Chúa đã chỉ dạy cho Moses trên núi, nhưng nơi này “chỉ là
hình ảnh lu mờ mô phỏng thánh điện trên trời.”
(2) Ngai Thiên Chúa trong Thánh Điện trên trời:
Khi Chúa Giêsu dâng lễ vật hy sinh, Ngài dâng “trong lều trại thật, do Thiên
Chúa chứ không phải do người phàm dựng lên.”
Nói tóm, “Đức Giêsu được một tác vụ cao trọng
hơn, bởi vì Người là trung gian của một giao ước tốt đẹp hơn; giao ước này căn
cứ vào những lời hứa tốt đẹp hơn.”
2/ Bài đọc I (năm chẵn): Sao ngài lại muốn phạm tội đổ máu người vô tội, mà vô
cớ giết David?
2.1/ Vua Saul ghen tị với David: Trình thuật hôm
nay tiếp theo biến cố David chiến đấu với tên khổng lồ người Philistine và đã
chặt đầu hắn mang về. Khi nghe tin David chiến thắng trở về, các phụ nữ của Israel
vui đùa ca hát rằng: "Vua Saul hạ được hàng ngàn, ông David hàng
vạn." Khi vua Saul nghe những lời ca tụng ấy, vua giận lắm và nói:
"Người ta cho David hàng vạn, còn ta thì họ cho hàng ngàn. Nó chỉ còn
thiếu ngôi vua nữa thôi!" Từ ngày đó, vua Saul nhìn David với con mắt ghen
tị.
Con người khi quen sống trong cảnh giàu sang,
danh vọng, và uy quyền, thường dễ quên đi quá khứ và lý do mình được hưởng
những điều kiện đó. Trường hợp của Saul cũng thế, ông thuộc chi tộc Benjamin,
một trong chi tộc nhỏ bé nhất của 12 chi tộc Israel; nhưng chỉ vì Đức Chúa đoái
thương nhìn tới, mà ông được xức dầu phong vương. Một sự thật nữa ông cần khiêm
nhường nhìn nhận là Đức Chúa đã cho ông cơ hội và ban ơn để ông thi hành sứ vụ;
nhưng ông đã không vâng lời Đức Chúa, nên bị thất sủng trước mặt Đức Chúa.
2.2/ Jonathan lập mưu cứu David khỏi kế hoạch
của cha mình: Từ chỗ ghen tị với David, vua Saul đi tới ý định muốn giết David.
Vua Saul nói với ông Jonathan, con vua, và với toàn thể triều thần về ý định
giết ông David. Nhưng ông Jonathan, con vua Saul, lại rất có cảm tình với ông
David. Ông Jonathan báo cho ông David rằng: "Vua Saul, cha tôi, đang tìm
cách giết anh. Vậy sáng mai anh hãy coi chừng, hãy ở nơi kín đáo và ẩn mình đi.
Phần tôi, tôi sẽ đi ra, sẽ đứng cạnh cha tôi trong cánh đồng, nơi anh đang
trốn, tôi sẽ nói với cha tôi về anh. Thấy thế nào, tôi sẽ báo cho anh."
Jonathan nhìn ra sự thật mà vua Saul, cha mình
không nhìn thấy; ông nói với vua: "Xin đức vua đừng phạm tội hại tôi tớ
ngài là David, vì anh ấy đã không phạm tội hại ngài, và các hành động của anh
là điều rất lợi cho ngài. Anh đã liều mạng và hạ được tên Philistine, và Đức
Chúa đã thắng lớn để bảo vệ toàn thể Israel. Ngài đã thấy và đã vui mừng. Vậy
sao ngài lại phạm tội đổ máu vô tội, mà vô cớ giết David?" Con người cần
biết dẹp bỏ tính tự ái và ích kỷ để hy sinh cho lợi ích chung. David đã can đảm
chiến đấu để giết được tên Philistine, là mối đe dọa cho nền an ninh của quốc
gia, mà vua Saul không làm được. Ngoài ra, vua Saul phải sáng suốt nhìn nhận,
nhà vua không thể làm mọi sự; mỗi thời Đức Chúa gởi tới một người để lo cho lợi
ích chung. Khi mình đã chu toàn sứ vụ, hãy can đảm để thế hệ trẻ tiếp nối sứ vụ
của mình. Người đau khổ, bất an, là người không biết thời mình đã hết; nhưng cứ
ngoan cố bảo vệ và hãnh diện về những gì mình đã bỏ công xây dựng.
Vua Saul nghe theo lời ông Jonathan, và vua Saul
thề rằng: "Có Đức Chúa hằng sống, ta thề: nó sẽ không bị giết." Ông
Jonathan gọi ông David đến và ông Jonathan thuật lại tất cả những điều ấy; rồi
ông Jonathan dẫn ông David đến với vua Saul, và ông David lại phục vụ vua như
trước.
3/ Phúc Âm: Mọi người từ khắp nơi kéo đến với Chúa Giêsu.
Bước đầu trong hành trình rao giảng của Chúa
Giêsu thành công tốt đẹp: phần vì những lời giảng dạy của Ngài, phần vì những
phép lạ Ngài làm cho dân chúng. Tiếng lành đồn xa, nên như trình thuật hôm nay
kể, mọi người trong khắp vùng Cận Đông tuôn đến với Chúa Giêsu: “Đức Giêsu cùng
với các môn đệ của Người lánh về phía Biển Hồ. Từ miền Galilee, người ta lũ
lượt đi theo Người. Và từ miền Judah, từ Jerusalem, từ xứ Idumea, từ vùng bên
kia sông Jordan và vùng phụ cận hai thành Tyre và Sidon, người ta lũ lượt đến
với Người, vì nghe biết những gì Người đã làm.”
(1) Chúa Giêsu chữa con người khỏi mọi bệnh họan
tật nguyền: Điều có sức hấp dẫn con người nhất là được chữa lành khỏi mọi bệnh
họan tật nguyền. Dân chúng kéo đến với Chúa Giêsu để được chữa bệnh. Ngài có
năng lực của Thiên Chúa đến nỗi “ai có bệnh cũng đổ xô đến để sờ vào Người.”
Nếu cứ để họ chen lấn xô đẩy nhau để được đến gần và sờ vào Chúa, không khéo sẽ
có nhiều tai nạn không may xảy ra. Hơn nữa, Chúa đến không phải chỉ để chữa
bệnh, mà còn giảng dạy và mặc khải về Thiên Chúa, nên Chúa Giêsu đã khôn ngoan
“bảo các môn đệ dành sẵn cho Người một chiếc thuyền nhỏ.”
(2) Các thần ô uế biết Chúa Giêsu là Con Thiên
Chúa: Danh xưng “con Thiên Chúa” không nhất thiết chỉ bản tính Thiên Chúa của
Chúa Giêsu, vì danh xưng này được dùng để chỉ nhiều người như: các thiên thần
(Gen 6:2), dân Do-thái là con Thiên Chúa (Hos 11:1), vua của Do-thái là con
Thiên Chúa (II Sam 7:14), người công chính là con Thiên Chúa (Sir 4:10)… Các
thần ô uế có thể nhận thấy một thứ quyền lực thánh thiện từ Chúa Giêsu đối chọi
với sự ô uế của chúng, làm cho chúng không thể tồn tại, nên hỏang sợ kêu lên:
"Ông là Con Thiên Chúa!" Nhưng Người cấm ngặt chúng không được tiết
lộ Người là ai.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúa Giêsu là sự toàn hảo của Thiên Chúa.
Chúng ta hãy tin tưởng và học hỏi nơi Ngài để biết về Thiên Chúa.
- Vì chúng ta không có thời gian nhiều để học
hỏi mọi điều hay trong vũ trụ; điều quan trọng và cần thiết nhất chúng ta phải
học là kiến thức về Thiên Chúa.
- Chỉ một người duy nhất có thể mang đến cho
chúng ta Ơn Cứu Độ là Chúa Giêsu qua hiến lễ hy sinh của Ngài trên Thập Giá.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP
****************
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét