Thánh Josaphat
(1580?-1623)
(1580?-1623)
Thánh Josaphat, vị
giám mục theo lễ điển Ðông Phương, được coi là vị tử đạo cho sự hợp nhất giáo
hội vì ngài cố gắng đưa Chính Thống Giáo về hợp nhất với Rôma.
Vào năm 1054, một sự
chia cắt chính thức được gọi là đại ly giáo đã xảy ra giữa Giáo Hội Ðông Phương
ở Constantinople và Giáo Hội Tây Phương ở Rôma vì những bất đồng về thần học và
đời sống độc thân của giáo sĩ. Cho đến năm thế kỷ sau, một giáo chủ Chính Thống
Giáo ở Kiev và năm giám mục Chính Thống Giáo quyết định đưa hàng triệu người
Chính Thống Giáo dưới quyền về hợp nhất với Rôma. Khi Thượng Hội Ðồng ở Brest
Litovsk khai mạc vào năm 1595 thì Thánh Josaphat Kunsevich lúc ấy chỉ là một
cậu bé trai, nhưng đã được chứng kiến các kết quả tích cực cũng như tiêu cực
của thượng hội đồng.
Hàng triệu Kitô Hữu
đã không đồng ý với các giám mục về sự hiệp thông với Công Giáo, và cả đôi bên
đều tìm cách giải quyết sự bất đồng, không chỉ bằng lời nói mà còn bằng vũ lực.
Do đó cả hai phía đều có nhiều người đã tử vì đạo. Giữa những xáo trộn ấy,
Thánh Josaphat là một tiếng nói hòa bình.
Khi còn niên thiếu,
nhờ sự khuyến khích của hai vị linh mục dòng Tên nên ngài đã gia nhập tu viện
Holy Trinity ở Vilna năm 1604. Trong thời gian này, ngài quen thân với Joseph
Benjamin Rutsky, là người trở lại Kitô Giáo sau một thời gian theo phái Calvin.
Cả hai đều muốn sự hợp nhất trong giáo hội và cải tổ đời sống tu trì.
Sau đó, Josaphat được
gửi đi trông coi một cơ sở ở Rôma, còn Rutsky được làm tu viện trưởng ở Vilna.
Khi Rutsky được làm giáo chủ của Kiev, thì Josaphat lại được thế chỗ Rutsky làm
tu viện trưởng. Nhân cơ hội này, Josaphat thi hành kế hoạch cải tổ, nhưng đường
hướng cải tổ phản ảnh một đời sống nghiêm nhặt và khắc khổ của ngài, nên không
mấy ai hưởng ứng. Ngay cả một tu hội còn dọa ném ngài xuống sông!
Khi là vị giám mục
đầu tiên ở Vitebsk và sau đó ở Polotsk vào năm 1617, Ðức Giám Mục Josaphat phải
đối diện với nhiều khó khăn. Có thể nói giáo hội lúc ấy thật thối nát, giáo sĩ
tái hôn đến hai ba lần, và họ không lo lắng gì đến việc mục vụ hoặc đời sống
gương mẫu. Trong vòng ba năm, Ðức Giám Mục Josaphat phải chấn chỉnh lại giáo
hội qua các thượng hội đồng, phân phát sách giáo lý khắp nơi, và áp đặt những
quy luật cho hàng giáo sĩ. Nhưng đáng kể hơn cả là chính đời sống của ngài mà
hầu như lúc nào cũng đi rao giảng, giáo dục đức tin, thăm viếng những kẻ đau
ốm.
Bất kể công việc và
tiếng tăm của Ðức Giám Mục Josaphat, những người Chính Thống Giáo ly khai đã
bầu một tổng giám mục của họ ngay ở cùng một thành phố. Thật đau lòng cho Ðức
Giám Mục Josaphat khi thấy những người ngài phục vụ bị phân ly trong những cuộc
bạo loạn. Ngay cả giáo phận cũ của ngài ở Vitebsk cũng chống đối sự hợp nhất và
chống chính ngài. Ðau khổ hơn cả, là chính người Công Giáo mà ngài tìm cách hợp
nhất cũng chống đối ngài, chỉ vì họ không thích lễ điển Byzantine mà ngài chủ
trương thay vì lễ điển Rôma. Vì sợ hãi hoặc vì ngu dốt, vị chưởng ấn của
Lithuania, tin lời đồn đãi rằng ngài xúi giục dân chúng nổi loạn, nên thay vì
giúp đỡ thì lại lên án Ðức Giám Mục Josaphat. Thực sự ngài chỉ dùng đến quyền
lực khi các người ly khai chiếm nhà thờ Mogilev và ngài xin nhà cầm quyền giúp
phục hồi lại quyền bính.
Vào tháng Mười 1623,
Ðức Giám Mục Josaphat quyết định trở về Vitebsk để đích thân lắng dịu vấn đề.
Ngài biết rất nguy hiểm nhưng cho biết, "Nếu tôi xứng đáng được phúc tử
đạo, thì tôi không sợ chết."
Những người ly khai
coi đây là cơ hội để trừ khử Josaphat và làm ngài mất uy tín nếu họ xúi giục
được phe của ngài nổi loạn trước và coi đó là cái cớ để chống lại. Sự đe dọa
tính mạng của ngài quá lộ liễu đến nỗi ngài phải lên tiếng, "Quý vị muốn
giết tôi sao. Quý vị phục kích tôi trên đường phố, trên cầu cống, trong chợ
búa, ở khắp mọi nơi. Chính tôi đây. Tôi đến với quý vị như một mục tử. Quý vị
biết là tôi rất vui mừng để hy sinh cho quý vị. Tôi sẵn sàng chết cho sự hợp
nhất của Giáo Hội dưới quyền Thánh Phêrô và các giáo hoàng kế vị."
Khi người ly khai
thấy kế hoạch thất bại, họ lập mưu bằng cách đưa một linh mục tên Elias đến nơi
tụ họp của phe đức giám mục để lên tiếng sỉ vả bất cứ ai đi ngang qua, nhất là
vu khống Ðức Giám Mục Josaphat và Giáo Hội Công Giáo, cốt để chọc tức.
Biết được thâm ý của
họ, Ðức Giám Mục Josaphat giữ im lặng và cầu nguyện nguyên ngày. Qua ngày hôm
sau, Elias lại đến nữa và các người phục dịch của đức giám mục đã bắt nhốt
Elias trong một căn phòng khi ngài đi vắng. Trở về nhà, thấy vậy ngài đã mở cửa
phòng cho Elias trốn đi. Nhưng đã quá trễ. Ðám ly khai chỉ chờ có thế để báo
động cả thành phố đến bao vây với gậy gộc trên tay.
Khi bước ra sau vườn,
ngài thấy đám du côn đánh đập các người phục dịch và các linh mục khác, ngài
lớn tiếng kêu: "Này các con, các con làm gì những người đó vậy? Nếu các
con muốn chống đối cha, thì có cha đây, đừng đụng đến những người ấy!" Sau
tiếng hô to, "Hãy giết tên theo giáo hoàng," bọn họ đánh đập Ðức Giám
Mục Josaphat với gậy gộc, sau đó họ dùng rìu và cuối cùng bắn vào đầu ngài. Thi
thể đầy máu của ngài bị họ kéo lê ra sông và quăng xuống đó cùng với xác con
chó của ngài.
Những anh hùng vô
danh trong thảm kịch này là các người Do Thái ở Vitebsk. Họ đã liều mạng xông
vào toà giám mục để can gián và cứu những người trong toà giám mục khỏi bị sát
hại. Nhờ sự can đảm của họ, nhiều người đã được cứu sống. Cũng chính những người
Do Thái này đã công khai lên án các tên sát nhân và thương tiếc Ðức Giám Mục
Josaphat, trong khi người Công Giáo ở thành phố lại trốn chui trốn nhủi vì sợ
hãi.
Thông thường, sự bạo
động luôn luôn có hậu quả trái ngược. Vì hối hận và kinh hoàng về cuộc bạo động
khiến họ mất đi một vị giám mục thánh thiện nên công chúng lại hướng về sự hợp
nhất với Rôma. Và sau cùng, đức tổng giám mục mà phe ly khai dựng lên là
Meletius Smotritsky cũng đã hoà giải với Rôma.
Vào năm 1867, Ðức
Giám Mục Josaphat là vị thánh đầu tiên của Giáo Hội Ðông Phương được Rôma tuyên
phong hiển thánh.
Lời Bàn
Mầm mống chia rẽ được
bắt đầu vào thế kỷ thứ tư, khi Ðế Quốc La Mã bị chia cắt làm hai phần Ðông và
Tây. Không một lý do nào có thêå biện minh cho sự phân ly hiện nay trong Kitô Giáo,
mà trong đó 64 phần trăm là Công Giáo Rôma, 13 phần trăm là các Giáo Hội Ðông
Phương (hầu hết là Chính Thống Giáo) và 23 phần trăm Tin Lành, trong khi 71
phần trăm dân số thế giới chưa được biết đến Ðức Kitô thì họ phải là những
người được mục kích sự hợp nhất Kitô Giáo và đức bác ái của những người mệnh
danh là Kitô Hữu!
Trích từ NguoiTinHuu.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét