Thứ Tư, Tuần II TN
Bài đọc: Heb
7:1-3, 15-17; I Sam 17:32-33, 37, 40-51; Mk 3:1-6.
1/ Bài đọc I (năm lẻ):
1 Quả vậy, ông Men-ki-xê-đê là vua Sa-lem, là tư tế của Thiên
Chúa Tối Cao, đã đón gặp và chúc lành cho ông Áp-ra-ham, lúc ông này đang trên
đường về sau khi đánh bại các vua. 2 Ông Áp-ra-ham đã chia
cho ông Men-ki-xê-đê một phần mười chiến lợi phẩm. Trước hết, ông tên là
Men-ki-xê-đê, nghĩa là "vua công chính"; rồi ông lại là vua Sa-lem,
nghĩa là "vua bình an." 3 Ông không có cha,
không có mẹ, không có gia phả, cuộc đời không có khởi đầu, cũng không có kết
thúc. Như thế là ông giống Con Thiên Chúa: mãi mãi ông vẫn là tư tế.
15 Điều ấy lại còn hiển nhiên hơn nữa, khi một vị tư tế khác
tương tự như ông Men-ki-xê-đê xuất hiện; 16 vị này đã trở
nên tư tế không phải do Lề Luật quy định việc cha truyền con nối, nhưng do sức
mạnh của một đời sống bất diệt. 17 Quả thật, có lời chứng
nhận rằng: Muôn thuở, Con là Thượng Tế theo phẩm trật Men-ki-xê-đê.
2/ Bài đọc I (năm chẵn):
32 Đa-vít nói với vua Sa-un: "Đừng ai ngã lòng vì nó. Tôi
tớ ngài đây sẽ đi chiến đấu với tên Phi-li-tinh ấy." 33 Vua
Sa-un nói với Đa-vít: "Con không thể đến với tên Phi-li-tinh ấy để chiến
đấu với nó, vì con chỉ là một đứa trẻ, còn nó là một chiến binh từ khi còn
trẻ."
37 Đa-vít nói: "Đức Chúa là Đấng đã giật con khỏi vuốt sư
tử và vuốt gấu, chính Người sẽ giật con khỏi tay tên Phi-li-tinh này." Vua
Sa-un nói với Đa-vít: "Con hãy đi, xin Đức Chúa ở với con!"
40 Cậu cầm gậy trong tay, chọn lấy năm hòn đá cuội dưới suối,
bỏ vào túi chăn chiên, vào bị của cậu, rồi tay cầm dây phóng đá, cậu tiến về
phía tên Phi-li-tinh. 41 Tên Phi-li-tinh từ từ tiến lại
gần Đa-vít, đi trước mặt nó là người mang thuẫn. 42Tên
Phi-li-tinh nhìn, và khi thấy Đa-vít, nó khinh dể cậu, vì cậu còn trẻ, có mái
tóc hung và đẹp trai. 43 Tên Phi-li-tinh nói với Đa-vít:
"Tao là chó hay sao mà mầy cầm gậy đến với tao?" Và tên Phi-li-tinh
lấy tên các thần của mình mà nguyền rủa Đa-vít. 44 Tên
Phi-li-tinh nói với Đa-vít: "Đến đây với tao, tao sẽ đem thịt mày làm mồi
cho chim trời và dã thú." 45 Đa-vít bảo tên
Phi-li-tinh: "Mày mang gươm, mang giáo, cầm lao mà đến với tao. Còn tao,
tao đến với mày nhân danh Đức Chúa các đạo binh là Thiên Chúa các hàng ngũ
Ít-ra-en mà mày thách thức. 46 Ngay hôm nay Đức Chúa sẽ
nộp mày vào tay tao, tao sẽ hạ mày và làm cho đầu mày lìa khỏi thân. Ngay hôm
nay tao sẽ đem xác chết của quân đội Phi-li-tinh làm mồi cho chim trời và dã
thú. Toàn cõi đất sẽ biết rằng có một Thiên Chúa che chở Ít-ra-en, 47 và
toàn thể đại hội này sẽ biết rằng không phải nhờ gươm, nhờ giáo mà Đức Chúa ban
chiến thắng, vì chiến đấu là việc của Đức Chúa và Người sẽ trao chúng mày vào
tay chúng tao!"
48 Khi tên Phi-li-tinh bắt đầu xông lên và đến gần để đương đầu
với Đa-vít, thì Đa-vít vội vàng chạy từ trận tuyến ra để đương đầu với tên
Phi-li-tinh. 49 Đa-vít thọc tay vào bị, rút từ đó ra một
hòn đá, rồi dùng dây phóng mà ném trúng vào trán tên Phi-li-tinh. Hòn đá cắm
sâu vào trán, khiến nó ngã sấp mặt xuống đất. 50 Thế là
Đa-vít thắng tên Phi-li-tinh nhờ dây phóng và hòn đá. Cậu hạ tên Phi-li-tinh và
giết nó. Nhưng trong tay Đa-vít không có gươm. 51 Đa-vít
chạy lại, đứng trên xác tên Phi-li-tinh, lấy gươm của nó, rút khỏi bao, kết
liễu đời nó và dùng gươm chặt đầu nó.
3/ Phúc Âm:
1 Đức Giê-su lại vào hội đường. Ở đó có một người bị bại tay. 2 Họ
rình xem Đức Giê-su có chữa người ấy ngày sa-bát không, để tố cáo Người. 3 Đức
Giê-su bảo người bại tay: "Anh trỗi dậy, ra giữa đây!" 4 Rồi
Người nói với họ: "Ngày sa-bát, được phép làm điều lành hay điều dữ, cứu
mạng người hay giết đi? " Nhưng họ làm thinh.
5 Đức Giê-su giận dữ rảo mắt nhìn họ, buồn khổ vì lòng họ chai
đá. Người bảo anh bại tay: "Anh giơ tay ra! " Người ấy giơ ra, và tay
liền trở lại bình thường.
6 Ra khỏi đó, nhóm Pha-ri-sêu lập tức bàn tính với phe
Hê-rô-đê, để tìm cách giết Đức Giê-su.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Phải tin tưởng nơi uy
quyền của Thiên Chúa.
Tôn giáo hiện hữu là để đưa con người tới Thiên
Chúa. Để làm việc này, con người cần giữ luật. Bao lâu con người tuân giữ những
luật Thiên Chúa truyền, con người giữ mối liên hệ tốt lành với Thiên Chúa.
Nhưng con người đã không thể giữ mãi mối liên hệ với Thiên Chúa vì họ phạm tội;
và như thế, con người cần dâng lễ vật để đền tội và nối lại mối liên hệ với
Thiên Chúa. Đó là lý do chức tư tế và luật dâng lễ vật hiện hữu. Theo từ ngữ
Latin, từ ngữ dùng để chỉ tư tế là pontifex, có nghĩa người xây cầu
để nối giữa 2 điểm. Tư tế là người xây cầu để nối giữa Thiên Chúa và con người
bằng dâng các lễ vật hy sinh. Theo truyền thống Do-thái, lễ vật hy sinh chỉ có
thể đền những tội vô tình xúc phạm đến Luật mà thôi; những tội cố ý, không lễ
vật hy sinh nào có thể đền được. Tác giả Thư Do-thái nhìn thấy sự bất toàn của
chức tư tế và các lễ vật hy sinh trong Đạo Do-thái; ông nhận ra con người cần
một phẩm trật tư tế cao trọng hơn phẩm trật tư tế theo Aaron, và một lễ vật hy
sinh cao trọng hơn máu chiên bò, để có thể tha thứ các tội cho con người, và
cung cấp cho con người cách thức an toàn để nối lại mối liên hệ với Thiên Chúa
sau khi phạm tội.
Trong Bài Đọc I, năm lẻ, tác giả dùng Thánh Vịnh
110:4 và Sách Sáng Thế 14:18-20, để chứng minh Đức Kitô là Thượng Tế theo phẩm
trật Melkizedek; phẩm trật này cao trọng hơn phẩm trật Aaron, vì “Melkizedek
không có cha, không có mẹ, không có gia phả, cuộc đời không có khởi đầu, cũng
không có kết thúc. Như thế là ông giống Con Thiên Chúa: mãi mãi ông vẫn là tư
tế.” Trong Bài Đọc I, năm chẵn, trẻ David tình nguyện đi chiến đấu với tên
khổng lồ Philistine, vì cậu tin uy quyền của Thiên Chúa sẽ giúp cậu chiến
thắng. Vì biến cố vĩ đại này, Thiên Chúa chuẩn bị lòng dân chúng dành chấp nhận
David làm vua thay thế Saul. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu tức giận vì nhóm
Pharisees lòng chai dạ đá: trong khi Ngài muốn chữa lành con người khỏi mọi tội
lỗi và bệnh hoạn, tật nguyền, nhưng họ luôn tìm cách để tố cáo và luận tội
Ngài.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Đức
Kitô là Thượng-tế theo phẩm trật Melkizedek.
1.1/ Thượng Tế Melkizedek: Khi truy tầm tên
Melkizedek mà Thánh Vịnh 110 đề cập tới, Tác-giả Thư Do-Thái tìm thấy trong
Sách Sáng Thế nói về Ông như sau: “Ông Melkizedek, vua thành Salem, mang bánh
và rượu ra; ông là tư tế của Thiên Chúa Tối Cao. Ông chúc phúc cho ông Abraham
và nói: "Xin Thiên Chúa Tối Cao, Đấng dựng nên trời đất, chúc phúc cho
Abraham! Chúc tụng Thiên Chúa Tối Cao, Đấng đã trao vào tay ông những thù địch
của ông!" Rồi ông Abraham biếu ông Melkizedek một phần mười tất cả chiến
lợi phẩm” (Gen 14:18-20).
Tác-giả dựa vào những gì Sách Sáng Thế trình
bày, và suy diễn thêm về những gì tuy Kinh Thánh không nói tới, nhưng quan
trọng về vị Thượng Tế này như sau: “Trước hết, ông tên là Melkizedek, nghĩa là
"Vua công chính;" rồi ông lại là vua Salem, nghĩa là "Vua bình
an." Ông không có cha, không có mẹ, không có gia phả, cuộc đời không có
khởi đầu, cũng không có kết thúc. Như thế là ông giống Con Thiên Chúa: mãi mãi
ông vẫn là tư tế.”
1.2/ Sự khác biệt giữa 2 phẩm trật tư tế: Tác
giả so sánh những gì ông tìm ra về Thượng Tế Melkizedek và so sánh với những gì
ghi chép trong Luật về phẩm trật tư tế Aaron, ông tìm ra những khác biệt trong
Chương 7, chúng tôi chỉ tóm tắt như sau:
(1) Phẩm trật Aaron: Theo Luật Do-Thái, một
người trở thành tư tế vì thuộc giòng dõi Aaron; mà không tùy thuộc vào đặc tính
và khả năng của vị tư tế. Chức tư tế của những người theo phẩm trật Aaron chấm
dứt cùng với cái chết của người ấy. Thiên Chúa không bao giờ thề hứa với phẩm trật
theo Aaron. Sau cùng, các tư tế theo phẩm trật này phải luôn dâng hy lễ đền tội
cho mình, trước khi có thể dâng lễ đền tội cho người khác.
(2) Phẩm trật Melkizedek: Chức tư tế của
Melkizedek không tùy thuộc vào giòng dõi con người, nhưng tùy thuộc vào đặc
tính và khả năng của ông. Hơn nữa, Melkizedek không có gia phả con người, và
Kinh Thánh không thấy nói tới sự chết của ông; vì thế, chức tư tế của ông tồn
tại đến muôn đời. Chức tư tế theo phẩm trật Melkizedek được Thiên Chúa thề hứa
và không bao giờ thay đổi (x/c Psa 110:4). Đức Kitô không bao giờ phạm tội, và
Ngài không cần dâng lễ đền tội cho mình, chỉ dâng hy lễ một lần để đền tội cho
con người là đủ.
1.3/ Đức Kitô là Thượng-tế theo phẩm trật
Melkizedek: Tác giả Thư Do-Thái kết luận: “Điều ấy lại còn hiển nhiên hơn nữa,
khi một vị tư tế khác tương tự như ông Melkizedek xuất hiện; vị này đã trở nên
tư tế không phải do Lề Luật quy định việc cha truyền con nối, nhưng do sức mạnh
của một đời sống bất diệt. Quả thật, có lời chứng nhận rằng: “Muôn thuở, Con là
Thượng Tế theo phẩm trật Melkizedek”” (Psa 110:4).
2/ Bài đọc I (năm chẵn): Không phải nhờ gươm, nhờ giáo mà Đức Chúa ban chiến
thắng.
Đây là câu truyện nói lên uy quyền của Thiên
Chúa. Thoạt nhìn, không ai có thể nghĩ David sẽ thắng tên Philistine; ngay cả
vua Saul là người to lớn nhất trong Israel cũng phải đầu hàng. Khi David tỏ ý
định muốn đi chiến đấu với tên khổng lồ Philistine, vua Saul nói với David:
"Con không thể đến với tên Philistine ấy để chiến đấu với nó, vì con chỉ
là một đứa trẻ, còn nó là một chiến binh từ khi còn trẻ." Nhưng David tin
tưởng vào uy quyền Thiên Chúa, ông nói: "Đức Chúa là Đấng đã giật con khỏi
vuốt sư tử và vuốt gấu, chính Người sẽ giật con khỏi tay tên Philistine
này." Vua Saul nói với David: "Con hãy đi, xin Đức Chúa ở với
con!" Cậu cầm gậy chăn chiên trong tay, chọn lấy năm hòn đá cuội dưới
suối, bỏ vào túi chăn chiên, vào bị của cậu, rồi tay cầm dây phóng đá, cậu tiến
về phía tên Philistine.
(1) Tên Philistine cậy vào thể lực của mình: Khi
thấy có người Israel tiến lên, tên Philistine từ từ tiến lại gần David, đi
trước mặt nó là người mang thuẫn. Tên Philistine nhìn, và khi thấy David, nó
khinh dể cậu, vì cậu còn trẻ, có mái tóc hung và đẹp trai. Tên Philistine nói
với David: "Tao là chó hay sao mà mầy cầm gậy đến với tao?" Và tên
Philistine lấy tên các thần của mình mà nguyền rủa David. Tên Philistine nói
với David: "Đến đây với tao, tao sẽ đem thịt mày làm mồi cho chim trời và
dã thú."
(2) David chiến đấu nhân danh Thiên Chúa: David
bảo tên Philistine: "Mày mang gươm, mang giáo, cầm lao mà đến với tao. Còn
tao, tao đến với mày nhân danh Đức Chúa các đạo binh là Thiên Chúa các hàng ngũ
Israel mà mày thách thức."
- David tin tưởng nơi Thiên Chúa sẽ ban chiến
thắng, không chỉ chiến thắng cá nhân giữa cậu và tên Philistine, mà còn chiến
thắng giữa quân đội Israel trên quân đội Philistines: "Ngay hôm nay Đức
Chúa sẽ nộp mày vào tay tao, tao sẽ hạ mày và làm cho đầu mày lìa khỏi thân.
Ngay hôm nay tao sẽ đem xác chết của quân đội Philistine làm mồi cho chim trời
và dã thú."
- Cậu tin chiến thắng là nhờ Danh Chúa, Đấng
dựng nên trời đất, chứ không nhờ gươm giáo. David nói với tên Philistine:
"Toàn cõi đất sẽ biết rằng có một Thiên Chúa che chở Israel, và toàn thể
đại hội này sẽ biết rằng không phải nhờ gươm, nhờ giáo mà Đức Chúa ban chiến
thắng, vì chiến đấu là việc của Đức Chúa và Người sẽ trao chúng mày vào tay
chúng tao!"
(3) Kết quả của cuộc chiến: "Khi tên
Philistine bắt đầu xông lên và đến gần để đương đầu với David, thì David vội
vàng chạy từ trận tuyến ra để đương đầu với tên Philistine. David thọc tay vào
bị, rút từ đó ra một hòn đá, rồi dùng dây phóng mà bắn trúng vào trán tên
Philistine. Hòn đá cắm sâu vào trán, khiến nó ngã sấp mặt xuống đất. Thế là
David thắng tên Philistine nhờ dây phóng và một hòn đá. Cậu hạ tên Philistine
và giết nó. Nhưng trong tay David không có gươm. David chạy lại, đứng trên xác
tên Philistine, lấy gươm của nó, rút khỏi bao, kết liễu đời nó và dùng gươm
chặt đầu nó."
Vì vua Saul bất tuân lệnh của Thiên Chúa, Ngài
đã truất phế Saul khỏi ngôi vua. Thiên Chúa đã sai ngôn sứ Samuel xức dầu phong
vương cho trẻ David, và Ngài muốn dùng chiến thắng này để chuẩn bị lòng dân
chúng để tiếp nhận David làm vua thay thế Saul. Điều này một lần nữa chứng
minh: một khi Thiên Chúa đã chọn ai, Ngài sẽ ban ơn đủ cho người ấy thi hành
nghĩa vụ của mình.
3/ Phúc Âm: Đức
Giêsu giận dữ rảo mắt nhìn họ, buồn khổ vì lòng họ chai đá.
3.1/ Xung đột ý kiến giữa Chúa Giêsu và Nhóm
Pharisees: Chỉ trong hai câu mô tả ngắn ngủi, Marcô cho chúng ta nhìn thấy sự
xung đột giữa hai bên: “Đức Giêsu lại vào hội đường. Ở đó có một người bị bại
tay. Họ rình xem Đức Giêsu có chữa người ấy ngày Sabbath không, để tố cáo
Người.” Trong khi Chúa Giêsu chính thức rao giảng và chữa lành dân chúng trong
các hội đường, Nhóm Pharisees cũng có mặt. Mục đích của họ không phải để nghe
giảng, nhưng để “rình xem” Chúa Giêsu có chữa bệnh trong ngày Sabbath.
3.2/ Hai phản ứng khác nhau:
(1) Phản ứng của của Chúa Giêsu: Khi nhìn thấy
người bại tay, Chúa Giêsu động lòng thương anh, và Ngài muốn chữa lành, nên bảo
anh: "Anh trỗi dậy, ra giữa đây!" Ngài có thể bảo anh ngày mai trở
lại, hay bảo anh đi đến một nơi nào đó cho khuất mắt những người đang rình;
nhưng để dạy cho họ có cơ hội hiểu biết đúng đắn về ngày Sabbath, Chúa Giêsu
mời gọi họ đối thoại với Ngài: "Ngày Sabbath, được phép làm điều lành hay
điều dữ, cứu mạng người hay giết đi?" Nhưng họ làm thinh. Đức Giêsu giận
dữ rảo mắt nhìn họ, buồn khổ vì lòng họ chai đá. Người bảo anh bại tay:
"Anh giơ tay ra!" Người ấy giơ ra, và tay liền trở lại bình thường.
(2) Phản ứng của Nhóm Pharisees: Làm thinh không
nói có thể vì không biết câu trả lời; nhưng họ đã biết câu trả lời: phải luôn
làm việc lành trong cả ngày Sabbath, và phải luôn cứu mạng người; nhưng vì họ
sợ nếu phải công nhận những gì Chúa Giêsu dạy trước mặt mọi người, họ phải tin
theo và làm những gì Ngài đòi hỏi nên họ làm thinh. Không phải chỉ có thế,
nhưng sau khi ra khỏi đó, Nhóm Pharisees lập tức bàn tính với phe Herode, để
tìm cách giết Đức Giêsu.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Tội lỗi làm chúng ta xa cách Thiên Chúa; nhưng
qua Đức Kitô là Thượng Tế theo phẩm trật Melkizedek, chúng ta đã có con đường
an toàn để nối lại tình nghĩa với Ngài.
- Chúng ta hãy vâng lời làm theo những gì Đức
Kitô dạy. Nếu không hiểu, hãy chịu khó bỏ thời giờ để nghiên cứu học hỏi; đừng
ngoan cố như những người biệt-phái để cố tình sống trong tội lỗi của mình.
- Chúng ta có chiến thắng được ba thù là nhờ uy
quyền của Thiên Chúa, chứ không do sức lực, tài năng, và sự khôn ngoan của cá
nhân.
- Tôn giáo không phải chỉ là tuân theo những
luật lệ cứng nhắc, nhưng trước hết là tâm tình đồng cảm với những khổ đau của
nhân loại. Chúng ta hãy cố gắng và tìm cách để làm vơi đi những khổ đau của tha
nhân.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét