Ngày 6 tháng 1 GS
Bài đọc: 1 Jn
5:5-6, 8-13; Mk 1:6b-11.
1/ Bài đọc I:
5 Ai là kẻ thắng được thế gian, nếu không phải là người tin
rằng Đức Giê-su là Con Thiên Chúa?
6 Chính Đức Giê-su Ki-tô là Đấng đã đến, nhờ nước và máu;
không phải chỉ trong nước mà thôi, nhưng trong nước và trong máu. Chính Thần
Khí là chứng nhân, và Thần Khí là sự thật.
9 Chúng ta vẫn nhận lời chứng của người phàm, thế mà lời chứng
của Thiên Chúa còn cao trọng hơn, vì đó là lời chứng của Thiên Chúa, lời Thiên
Chúa đã làm chứng về Con của Người.
10 Ai tin vào Con Thiên Chúa, người đó có lời chứng ấy nơi
mình. Ai không tin Thiên Chúa, thì coi Thiên Chúa là kẻ nói dối, vì kẻ ấy không
tin vào lời Thiên Chúa đã làm chứng về Con của Người.
11 Lời chứng đó là thế này: Thiên Chúa đã ban cho chúng ta sự
sống đời đời, và sự sống ấy ở trong Con của Người.
12 Ai có Chúa Con thì có sự sống; ai không có Con Thiên Chúa
thì không có sự sống.
13 Tôi
đã viết những điều đó cho anh em là những người tin vào danh Con Thiên Chúa,
để anh em biết rằng anh em có sự sống đời đời.
để anh em biết rằng anh em có sự sống đời đời.
2/ Phúc Âm:
6 Ông Gio-an mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, ăn
châu chấu và mật ong rừng.
7 Ông rao giảng rằng: "Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến
sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người.
8 Tôi thì tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, còn Người,
Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần."
9 Hồi ấy, Đức Giê-su từ Na-da-rét miền Ga-li-lê đến, và được
ông Gio-an làm phép rửa dưới sông Gio-đan.
10 Vừa lên khỏi nước, Người liền thấy các tầng trời xé ra, và
thấy Thần Khí như chim bồ câu ngự xuống trên mình.
11 Lại có tiếng từ trời phán rằng: "Con là Con yêu dấu của
Cha, Cha hài lòng về Con."
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Đức Kitô có đủ bằng chứng cho chúng ta tin tưởng
nơi Ngài.
Để tin điều gì, chúng ta cần có bằng chứng. Một
trong những cách con người dùng để tin là qua các nhân chứng, vì chúng ta không
luôn luôn được chứng kiến sự thật.
Các bài đọc hôm nay xoay quanh các nhân chứng
của Đức Kitô. Tất cả đều chứng nhận ngài là Đấng Thiên Sai được Thiên Chúa sai
đến để chuộc tội cho con người. Trong bài đọc I, thánh Gioan liệt kê 3 nhân
chứng trong cuộc đời của Đức Kitô là Thánh Thần, Nước (lời chứng của Chúa Cha),
và Máu của Đức Kitô đã đổ ra trong lịch sử để chuộc tội cho con người. Trong
Phúc Âm, Gioan Tẩy Giả là nhân chứng của Đức Kitô cho sự hiện diện của Chúa Cha
và Chúa Thánh Thần; vì ông là người đã chứng kiến những điều này khi ông làm
phép thanh tẩy bằng nước cho Ngài.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thánh Thần, nước, và máu; cả ba cùng làm chứng một
điều.
1.1/ Ba chứng nhân của Đức Kitô: “Chính Đức
Giêsu Kitô là Đấng đã đến, nhờ nước và máu; không phải chỉ trong nước mà thôi,
nhưng trong nước và trong máu. Chính Thánh Thần là chứng nhân, và Thánh Thần là
sự thật. Có ba chứng nhân: Thánh Thần, nước và máu. Cả ba cùng làm chứng một
điều.” Để hiểu đọan văn này, chúng ta cần đọc lại Phúc Âm Gioan, và hoàn cảnh
lịch sử thời đại của Ngài. Đọan văn trong Phúc Âm nói về “nước và máu” như sau:
“Nhưng một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người. Tức thì, “máu cùng
nước” chảy ra. Người xem thấy việc này đã làm chứng, và lời chứng của người ấy
xác thực; và người ấy biết mình nói sự thật để cho cả anh em nữa cũng tin” (Jn
19:34-35). Nước và Máu là 2 biến cố quan trọng trong cuộc đời của Chúa Giêsu:
Nước khi Ngài chịu Phép Rửa bởi Gioan trong giòng sông Jordan. Máu khi Ngài
chịu chết trên Đồi Golgotha.
Sở dĩ Gioan nhấn mạnh đến “nước và máu”
là vì có bè rối “Thuần Tri Thức.” Cerinthus, người đại diện cho bè rối này, tin
Chúa Kitô đến bằng “nước,” khi Ngài chịu Phép Rửa. Thánh Thần hiện xuống và ở
lại trong Đức Kitô, và làm cho Ngài trở thành Con Thiên Chúa. Họ không chấp
nhận “máu,” vì họ không tin Thiên Chúa phải chịu đau khổ. Họ giải thích: trên
Đồi Golgotha, Thánh Thần xuất khỏi Đức Kitô và về trời. Có người còn cho người
chịu đóng đinh là ông Simon, chứ không phải là Đức Kitô. Thánh Gioan muốn chống
lại bè rối này bằng cách nhấn mạnh đến cả 3 nhân chứng đều cần thiết để tin vào
Đức Kitô là Đấng Thiên Chúa sai đến để chuộc tội cho nhân loại.
(1) Thánh Thần: hiện xuống và xức dầu cho Đức
Kitô khi Ngài chịu Phép Rửa (Mk 1:9-11, Mt 3:16-17, Lk 3:21, Jn 1:32-34, Acts
10:38). Phép Rửa này hoàn toàn khác với Phép Rửa của Gioan (Mk 1:8, Mt 3:11, Lk
3:16, Acts 1:5, 2:33). Thánh Thần hiện xuống với các Tông-đồ trong Ngày Lễ Ngũ Tuần
(Acts 2:4), và trong đời sống của Giáo-Hội (Acts 8:17, 10:14).
(2) Nước: Tại biến cố Chúa Giêsu chịu Phép Rửa,
Gioan Tẩy Giả làm chứng cho Đức Kitô: "Tôi đã thấy Thánh Thần tựa chim bồ
câu từ trời xuống và ngự trên Người. Tôi đã không biết Người. Nhưng chính Đấng
sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi: "Ngươi thấy Thánh Thần
xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh
Thần." Tôi đã thấy, nên xin chứng thực rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển
chọn" (Jn 1:32-34).
(3) Máu: Theo truyền thống Do-Thái, máu súc vật
phải đổ ra để làm lễ hy sinh đền tội cho con người. Đức Kitô là Chiên Thiên
Chúa đến xóa tội trần gian bằng lễ tế hy sinh của Ngài trên Thập Giá. Ngài
thiết lập bí-tích Thánh Thể trong Bữa Tiệc Ly, và Giáo Hội chúng ta hằng ngày
cử hành Thánh Lễ để liên tục tái diễn hy lễ của Đức Kitô trên Thập Giá để xóa
tội cho con người.
1.2/ Chúng ta phải tin lời của các chứng nhân:
Đức Kitô đến từ Thiên Chúa.
(1) Lời chứng của Thiên Chúa cao trọng hơn lời
chứng của người phàm: Luật dạy khi có 2 hoặc 3 nhân chứng, lời chứng đó là sự
thật. Đức Kitô có rất nhiều nhân chứng: Gioan Tẩy Giả, các phép lạ Ngài làm,
Kinh Thánh, các Tông-đồ …, nhưng lời chứng của Chúa Cha qua tiếng vọng từ trời
“Đây là Con Ta yêu dấu,” và lời chứng của Thánh Thần qua hình ảnh chim bồ câu
đậu lại trên Đức Kitô, là những lời chứng có thế giá hơn cả. Con người phải
nhận những lời chứng này và tin vào Đức Kitô; vì “ai không tin Đức Kitô, thì
coi Thiên Chúa là kẻ nói dối, vì kẻ ấy không tin vào lời Thiên Chúa đã làm
chứng về Con của Người.”
(2) Tin vào Đức Kitô mới có sự sống đời đời:
“Lời chứng đó là thế này: Thiên Chúa đã ban cho chúng ta sự sống đời đời, và sự
sống ấy ở trong Con của Người. Ai có Chúa Con thì có sự sống; ai không có Con
Thiên Chúa thì không có sự sống.”
2/ Phúc Âm: "Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về
Con."
3.1/ Sự khác biệt giữa hai Phép Rửa của Gioan và
của Đức Kitô: Gioan Tẩy Giả phân biệt sự khác biệt như sau: "Có Đấng quyền
thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người.
Tôi thì tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, còn Người, Người sẽ làm phép
rửa cho anh em trong Thánh Thần." Phép Rửa làm bởi Gioan là phép rửa làm
bởi con người để tha tội. Phép Rửa làm bởi Đức Kitô là phép rửa làm bởi Thiên
Chúa, Đấng quyền thế hơn con người. Người chịu Phép Rửa sẽ được xức dầu bởi
Chúa Thánh Thần, và được lãnh nhận mọi ơn cần thiết cho con người.
3.2/ Phép Rửa của Đức Kitô: “Hồi ấy, Đức Giêsu
từ Nazareth miền Galilee đến, và được ông Gioan làm phép rửa dưới sông Jordan.
Vừa lên khỏi nước, Người liền thấy các tầng trời xé ra, và thấy Thánh Thần như
chim bồ câu ngự xuống trên mình. Lại có tiếng từ trời phán rằng: "Con là
Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con."”
(1) Tại sao Chúa Giêsu chịu Phép Rửa bởi Gioan?
Phép Rửa của Gioan là phép rửa để tha tội. Tại sao Chúa Giêsu, Đấng không hề
phạm tội, lại muốn chịu Phép Rửa của Gioan? Chính Gioan đã ngăn cản Ngài:
"Chính tôi mới cần được Ngài làm phép rửa, thế mà Ngài lại đến với
tôi!" Nhưng Đức Giêsu trả lời: "Bây giờ cứ thế đã. Vì chúng ta nên
làm như vậy để giữ trọn đức công chính." Bấy giờ ông Gioan mới chiều theo
ý Người (Mt 3:14-15). Thánh Ambrose đưa một lý do khác: Chúa Giêsu, Đấng thánh
thiện tinh tuyền, chịu Phép Rửa để thánh hiến nước của giòng sông Jordan; và
Giáo Hội dùng nước này để rửa tội cho các tín hữu.
(2) Sự hiện diện của Chúa Thánh Thần dưới hình
chim bồ câu: Truyền thống Do-Thái tin chim bồ câu tượng trưng cho sư hiền lành.
Như Sách Tiên-tri trong Bài Đọc I mô tả Người tôi trung: Người chinh phục con
người không bằng những lời đe dọa hay sức mạnh, nhưng bằng tình yêu và sự kiên
nhẫn. Chúa Giêsu được xức dầu bởi Thánh Thần và được tấn phong để thi hành sứ
vụ Cứu Độ.
(3) Tiếng của Chúa Cha tuyên phán: "Con là
Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con." Khác với trình thuật của
Matthêu: “Đây là Con Ta yêu dấu, Ta hài lòng về Người.” Chúa Cha nói trực tiếp
với Chúa Con, và bày tỏ sự hài lòng về tất vả mọi việc của Chúa Con làm. Nếu so
sánh, chúng ta thấy trình thuật của Marcô gần với những gì tường thuật bởi
tiên-tri Isaiah trong Bài Đọc I hơn.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Đức Kitô có đủ bằng chứng cho chúng ta tin
tưởng nơi Ngài.
- Bổn phận của chúng ta là làm chứng cho Đức
Kitô để mọi người đều tin vào ngài.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP
****************
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét